Bửu Sơn Kỳ Hương là tôn giáo bản địa đầu tiên ở Nam Kỳ, ra đời vào năm 1849 tại tỉnh An Giang. Người sáng lập đạo là Đức Phật Thầy Tây An. Không chỉ là nhà tu hành, ngài còn là nhà yêu nước, nhà dinh điền, có công lao khai phá nhiều vùng đất hoang ở đồng bằng sông Cửu Long giữa thế kỷ XIX.
Đức Phật Thầy
Tây An thế danh là Đoàn Văn Huyên. Về sau, ngài xuất gia theo tông Lâm Tế dòng
Bổn Nguyên, có pháp danh Minh Huyên (Minh là chữ lót thuộc đời thứ 38 trong bài
kệ truyền thừa của dòng Bổn Nguyên) và pháp hiệu Pháp Tạng. Vì thế, người
đời sau thường gọi ngài là Đoàn Minh Huyên.
Đức Phật Thầy
sanh ngày rằm tháng 10 âm lịch năm Đinh Mão 1807. Quê quán ngài ở
thôn Tòng Sơn, tổng An Tịnh, huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh
Thanh (ngày nay là xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp). Ngài rời quê từ nhỏ, không ai rõ tung tích ra sao.
Đến khoảng năm
1844, ngài hiện diện vân du ở các xứ Gò Công, Mỏ Cày, Hà Tiên, Thất Sơn… rồi trở
về quê nhà vào năm 1849. Lúc này, Nam Kỳ đang xảy ra trận dịch tả lớn, khiến biết
bao người chết. Trong hoàn cảnh đó, ngài ra tay trị bệnh độ đời ở Tòng Sơn, rồi
đến Trà Bư và Kiến Thạnh (ngày nay đều thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) tiếp
tục trị bệnh cho dân chúng.
Ngài đi trên chiếc
xuồng bần, gặp người bệnh thì chữa trị, gặp người có duyên thì khuyết pháp khuyên
tu. Từ chỗ trị bệnh có hiệu quả, ngài dìu dắt nhiều bệnh nhân và người thân của
họ tu hành. Những người quy y với ngài được phát cho tấm giấy nhỏ màu vàng, có
đóng triện màu đỏ in bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”, tờ giấy này được gọi là “lòng
phái”.
Về giáo lý, đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương truyền dạy học Phật - tu nhân và báo đáp Tứ ân (ân tổ
tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam Bảo, ân đồng bào nhân loại). Tuy nương
vào Phật giáo là nền tảng, nhưng Bừu Sơn Kỳ Hương chủ trương đơn giản hóa, nhằm
đáp ứng nhu cầu thực tiễn của quần chúng bình dân trong bối cảnh khó khăn của
buổi đầu khai hoang ở vùng đất mới.
Về thờ phượng, tín đồ không bày
trí tranh hay tượng, bàn thờ Tam Bảo chỉ cần treo tấm trần điều (vải đỏ sậm) tượng
trưng cho mười phương chư Phật. Về nghi lễ, tín đồ không tụng kinh,
không sử dụng chương mõ, không dâng cúng lễ vật tốn kém… Tất cả tín đồ là cư sĩ
tại gia, vừa làm lụng sinh sống, vừa tinh tấn tu hành.
Nghe tin Đức Phật Thầy chữa bệnh và giảng đạo thu hút đông đảo tín đồ, triều đình nghi ngờ ngài là “gian đạo sĩ” có âm ưu chính trị. Ngài bị Tổng đốc An Giang bắt về thành Châu Đốc. Tại đây, ngài đã thể hiện tài năng và đức độ của người tu hành, khiến cho các vị quan nể phục và phóng thích ngài. Tuy nhiên để dễ kiểm soát, triều đình buộc ngài vào chùa Tây An dưới chân núi Sam, xuất gia theo phái Lâm Tế. Từ đó, ngài được người dân tôn gọi là Đức Phật Thầy Tây An.
Năm 1850, Đức Phật Thầy tiếp tục
đi lại khắp miền Hậu giang, cứu nhân độ thế, phổ biến giáo lý và vận động
khai hoang. Năm 1851, ngài và các đệ tử khai phá nhiều vùng đất hoang, thiết lập
các cơ sở kết hợp giữa tu hành và canh tác, được gọi là “trại ruộng”. Dù gặp
nhiều khó khăn, những tín đồ vẫn bám trụ, biến rừng rậm thành đồng ruộng phì
nhiêu. Kết quả, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đã thành lập bốn trại ruộng:
- Thới Sơn (xã Thới Sơn, huyện Tịnh
Biên, tỉnh An Giang ngày nay)
- Láng Linh (xã Thạnh Mỹ Tây, huyện
Châu Phú, tỉnh An Giang ngày nay)
- Cái Dầu (thị trấn Cái Dầu, huyện
Châu Phú, tỉnh An Giang ngày nay)
- Cần Lố (xã Nhị Mỹ, huyện Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp ngày nay).
Đức Phật Thầy Tây An viên tịch ngày 12 tháng 8 âm lịch năm Bính Thìn 1856. Hiện nay, ngôi mộ của ngài ở phía sau chùa Tây An, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Suốt 7 năm hành đạo, ngài có hàng vạn đệ tử mộ đạo quy y khắp lục tỉnh Nam Kỳ, trong đó có 12 đệ tử xuất sắc nhất được tín đồ tôn là Thập nhị Hiền thủ.
Đến nay, gần
hai thế kỷ trôi qua, Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn luôn được các nhà nghiên cứu đề cao
như một cải cách tôn giáo lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam
và một biểu tượng văn hóa đặc thù của Nam Bộ.
BỬU SƠN KỲ HƯƠNG nguyên thủy