Miền
Nam sông không sâu, núi không cao, đất rộng, người thưa, lịch sử mở mang bờ cõi
không dài, chỉ mới chừng 300 năm, vậy mà đã khai sinh ra nhiều mối đạo như Bửu
Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài... Chắc chắn đức Phật Thầy Tây An là
một vị nổi danh hơn cả, người Miền Tây không ai là không từng một lần nghe đến
tên Ngài. Cho nên người Phật Tử chúng ta tìm hiểu về Ngài và ảnh hưởng của
Ngài, tưởng cũng là một điều cần thiết.
II
- Tiểu sử:
Miền
Nam ngày trước sách vở ghi chép những sự kiện thật là hiếm hoi, chính vì vậy mà
ngày nay khó tìm cho rõ nguồn gốc của đức Phật Thầy, căn cứ vào mộ bia, vào
linh vị thì đức Phật Thầy sanh vào giờ Ngọ, ngày Rằm tháng Mười năm Đinh Mão
(1807), chánh quán ở làng Tòng Sơn, nay là xã Mỹ An Hưng, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp. Tên họ Ngài là Đoàn Văn Huyên, không rõ tên thân phụ và thân mẫu của
Ngài, nhưng mộ của thân mẫu Ngài ở rạch Cái Nai thuộc An Thạnh Trung, huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang, ngôi mộ nầy người ta gọi là mộ Phật Mẫu.
Có
lẽ khi còn niên thiếu thì song thân qua đời, từ đó Ngài đã đi tầm sư học đạo,
người ta cũng không rõ Ngài đã đi học đạo ở đâu, với ai và bao lâu. Chỉ biết
vào khoảng đầu năm 1849, Ngài trở về làng Tòng Sơn bằng chiếc xuồng con, tá túc
ở mái sau đình làng.
Năm
đó, bịnh “bệnh thời khí” nỗi lên ở những làng khác, rồi lan sang làng Tòng Sơn
(Vài mươi năm về trước, ở Việt Nam, bệnh thời khí là một thứ bệnh nguy hiểm,
vừa ói mửa, vừa bị tiêu chảy nên thân thể mau mất nước và chết, còn dịch tả chỉ
bị đi tiêu chảy, nhẹ hơn, nó lây lan nhanh chóng vì ruồi muỗi, vì thức ăn uống
không nấu chín...).Theo lệ xưa, mỗi khi có bệnh thời khí hay bệnh dịch, Làng
nhóm họp lại tại đình để bàn định việc đóng”bè thủy lục”, làm heo, gà, vịt,
cúng vái để “tống ôn dịch” ra khỏi làng. (Bè thủy lục thường làm bè chuối để
nổi trên nước, không tốn kém, to hay nhỏ đặng để đủ vật cúng, có khi có cả mái
che như cái nhà, luôn luôn cắm cờ xí xanh, vàng, đỏ, vật cúng như heo, gà, tam
xên, bánh trái, gạo muối...).
Trong
khi làng đang nhóm họp như thế thì Ngài lại khuyên nên tin tưởng Trời, Phật tìm
Thầy chữa trị, không nên giết hại súc vật cúng kiếng vừa mê tín, vừa mang tội
sát sanh. Làng không bằng lòng lời Ngài khuyên và thấy Ngài là người lạ, không
rõ tông tích đến cư ngụ tại đình, Làng quyết định sai Thị Sự báo cho Ngài phải
rời khỏi làng, được thông báo nầy, Ngài xin Thị Sự sắm khai lễ, để Ngài trình
làng về lai lịch của mình.
Do
yêu cầu của Ngài, chức việc làng đã họp lại để nghe Ngài trình lai lịch, lúc đó
người ta mới biết tổ phụ Ngài gốc gác người làng Tòng Sơn, trong làng còn có
hai người anh em chú bác, đó là ông Đoàn Văn Điểu và ông Đoàn Văn Viên, hai ông
nầy được làng cho đòi tới để kiểm chứng. Hai ông tới nơi không nhận biết Ngài,
sau đó Ngài phải kể lại những chuyện xưa trong gia đình, lúc đó hai ông mới biết
Ngài là thân tộc của mình. Việc nầy và ngôi mộ thân mẫu Ngài ở rạch Cái Nai,
chứng tỏ gia đình đã rời khỏi làng khi Ngài còn niên thiếu, đã có đủ trí khôn
để nhớ đến việc gia đình, và cũng vì khi Ngài rời khỏi làng lâu rồi, lúc Ngài
còn quá nhỏ, nay trở về đã 43 tuổi nên hai người kia không thể nhận ra Ngài,
vậy gốc gác Ngài chính thật là người làng Tòng Sơn.
III
- Hành đạo:
Ngay sau khi trình
bày lai lịch cho làng biết, nhận họ hàng anh em, Ngài mới giảng giải đạo lý cho
mọi người nghe rồi liền xuống xuồng đi đến rạch Trà Bư thuộc xã An Thạnh Trung,
huyện Chợ Mới tỉnh An Giang, nơi đây Ngài vạch đế sậy bên bờ rạch, che túp lều
tranh để ở. Anh em ông Điểu, ông Viên và vài dân làng Tòng Sơn bơi xuồng theo,
mời Ngài trở về ở Tòng Sơn để gần họ hàng và trị những người bị bệnh dịch. Ngài
từ chối trở về, nhưng cho biết có để lại một cây cờ ở sau đình để trị bệnh
dịch. Những người ấy trở về làng, tìm thấy cây cờ, họ xé ra, đốt rồi pha nước
cho người bệnh uống, người bệnh khỏi, khi nhiều người bệnh dùng hết cây cờ,
người ta lấy cộc cờ đốt lấy tro pha với nước uống cũng khỏi, khi đã hết cờ, hết
cán cờ, người ta lại kéo nhau vào rạch Trà Bư để xin thuốc chữa bệnh. Thuốc của
Ngài chỉ là giấy vàng (loại giấy mỏng, màu vàng thường người ta hay dùng để vẽ
bùa với mực màu đỏ hay đen), tro, nhang hay bông hoa.
Rồi nghe tin ở làng
Kiến Thạnh (nay là làng Long Kiến, huyện Chợ Mới) có dịch hoành hành, Ngài rời
Trà Bư bơi xuồng đến rạch Xẻo Môn. Ở đây, Ngài chọn cách làm cho dân chúng phải
tin một cách nhanh chóng, bằng cách đến nơi vào đêm khuya không ai hay biết,
rồi Ngài ngồi trên bàn thờ thần hoàng của đình làng Kiến Thạnh (xưa kia ở vàm
Chân Đùn, chớ không phải tại đình Long Kiến như ngày nay). Sáng sớm ông Từ vào
trong đình, thấy trên bàn thờ thần có một người ngồi, ông thất kinh hồn vía,
vừa la bài hải vừa chạy, Ngài gọi ông Từ lại và cho biết mình là Phật giáng
trần để cứu dân, độ thế. Ông từ định tâm lại, người ngồi trên bàn thờ thần hoặc
là bị bệnh “tâm thần” hoặc là “đấng siêu phàm”, cho nên ông Từ phải kiểm chứng
lại, bằng cách yêu cầu Ngài trị bệnh thời khí cho một người còn trẻ tên Thuông
ở ngay bên cạnh đình. Ngài nhận lời điều trị ngay và người ấy được cứu khỏi
bệnh, từ đó người ta lan truyền ra, thiên hạ đua nhau đến xin phép để trị bệnh,
Ngài vừa trị bệnh vừa giảng dạy mọi người ráng làm lành lánh dữ, niệm Phật, còn
ông Thuông về sau làm đến chức Hương Cả trong làng.
Vì người ta tấp nập
đến đình để xin thuốc chữa bệnh, làng sợ bị quan trên quở trách vì tụ tập đông
người tại đình, sẳn có cái cốc của ông Kiến không người ở, nên ba hôm sau, Làng
yêu cầu Ngài sang đó cho tiện việc chữa bệnh, phát thuốc và khuyến đạo. Ở đây
Ngài thâu nhận đệ tử và sửa sang cốc, bài trí cách thờ cúng, trên bàn thờ chỉ
có “Tấm Trần Điều” (tấm vải màu điều tượng trưng cho vô vi), nước lả và hoa. Về
sau nơi đây cất thành chùa Tây An Cổ Tự, năm 1952 khởi công cất lại chùa nầy,
rằm tháng Giêng năm Quý Tỵ (1953) làm lễ Khánh Thành, chùa cất rất khang trang
cho đến nay.
Có lẽ có người vì
tâm địa không tốt, hay vì lý do gì đó nên đã mật báo với Huyện Đông Xuyên (nay
là Thị xã Long Xuyên) Ngài là ông đạo giả hiệu để tụ tập nhiều người, không có
lợi cho sự trị an. Quan Huyện phải báo cho Tỉnh. Tổng Đốc tỉnh An Giang đã cho
một người Cai và đội lính đến để đưa Ngài về tỉnh thẩm tra xem giả hay thật, có
mưu đồ chi để phản nước hại dân không.
Tại đây người ta đã
giam Ngài, lại bày ra những cuộc thử xem coi Ngài có thần thông, bùa phép gì
không. Ngài đã chứng tỏ mình là bậc chân tu, ăn chay, niệm Phật lo cứu dân độ
thế, khuyến giảng cho người ta biết ăn hiền ở lành, từ đó tỉnh báo về triều
đình Huế, trường hợp của Ngài. Triều đình Huế vốn kính Phật, trọng tăng cho nên
dạy Ngài muốn tu phải trở thành Tăng, xuống tóc, quy y Tam Bảo.
Ngài tuân theo
chiếu chỉ của triều đình, cắt tóc và quy y đầu Phật. Lễ quy y do một vị Thiền
sư dòng Lâm Tế thuộc phái Nguyên Thiều cử hành tại chùa Tây An, núi Sam, Ngài
được đặt pháp danh là Pháp Tạng. Tóc đã cắt, Ngài phân chia gửi cho một số đệ
tử, nay con cháu họ vẫn còn gìn giữ.
Sau khi quy y rồi,
Ngài ở lại chùa Tây An để hành đạo và gần tỉnh thành cho các quan dễ bề theo
dõi sự truyền bá đạo của Ngài.
Về chùa Tây An,
theo Đại Nam Nhất Thống Chí, Lục Tỉnh Nam Việt Tập Hạ, viết về chùa này như
sau: “Chùa Tây An ở địa phận thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên; nguyên Tổng đốc
Mưu lược tướng Tuy Tĩnh Tử Doãn Uẩn kiến trúc năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Chùa
đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa theo vòm núi, tiếng
người lặng lẽ, cổ thụ âm u, cũng một thắng cảnh thuyền lâm vậy.”
Từ chùa Tây An ở
núi Sam, là ngôi chùa có Thiền Tông, không hợp với chủ trương truyền bá phương
pháp tu của Ngài, nên Ngài lập trại ruộng ở Thới Sơn (xưa kia có tên là trại
ruộng Hưng Thới), có trại để thờ phượng và tu theo đường lối Ngài chủ trương,
sau nầy cất chùa là Thới Sơn tự, lại có một trại ruộng khác cách đó chừng hai
cây số, nơi đây trước chỉ để hai con trâu (gọi là ông Sấm và ông Sét), sau nầy
cũng cất chùa là Phước Điền tự. Hai nơi nầy Ngài giao cho hai đệ tử là ông Tăng
Chủ và ông Đình Tây trông nom. Về sau đức Phật Thầy có lập trại ruộng Bửu Hương
Các ở Láng Linh, nơi nầy Ngài giao cho đệ tử là đức Cố Quản Trần Văn Thành
trông nom. Về sau con đức Cố Quản là ông Hai Nhu cất chùa, đặt tên là Bửu Hương
Các tự, nay thuộc Thạnh Mỹ Tây, quận Châu Phú tỉnh An Giang.
Ngài viên tịch tại
chùa Tây An vào trưa ngày 12 tháng Tám năm Bính Thìn (1856), thọ 50 tuổi đời,
Ngài chỉ hành đạo khoảng 7 năm. Mộ Ngài hiện nay ở tại chùa Tây An, dưới chân
núi Sam, Châu Đốc, đặc biệt mộ không có đấp nấm mồ, chỉ là khoảng đất bằng,
quanh năm không có cỏ mọc. Có dựng bia mộ bằng đá. Người ta truyền tụng rằng
đức Phật Thầy dạy: Người chết dùng 7 miếng tre (cho nam) hay 9 miếng tre (cho
nữ) bó chiếu rồi đem chôn, mồ không cần đấp nắm.
Linh vị của Ngài
ghi :
"Ngươn sanh
Đinh mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhật, ngọ thời, hưởng dương ngũ thập tuế.
Cung thỉnh Lâm Tế
chánh tông tam thập bát thế, thượng Pháp hạ Tạng tánh Đoàn, pháp danh húy Minh
Huyên đạo hiệu Giác linh chứng minh.
Vãng ư Bính Thìn
niên, bát ngoạt thập nhị nhựt, ngọ thời nhi chung."
IV - Chủ trương và lập phái Bửu Sơn Kỳ Hương:
Chùa Tây An ở núi
Sam thờ nhiều tượng Phật và Bồ Tát, đây là chùa Thiền Tông thuộc phái Lâm Tế,
chỉ là nơi Ngài quy y và tạm ở tu, gần tỉnh thành cho quan lại của triều đình
dễ bề kiểm soát. Còn đức Phật Thầy có đường lối, chủ trương riêng như thờ cúng
đơn giản, tại các trại ruộng do Ngài lập ra, bàn thờ chỉ trang thiết một tấm
trần điều, cúng nước lạnh, bông hoa, nhang đèn, chỉ niệm lục tự Di Đà chứ không
có tụng kinh. Ngài có dạy cho đệ tử thân cận những phép tu luyện, họ có thể trị
bịnh bằng phù phép, về giáo lý Ngài dạy chung cho tín đồ tựu trung là: “Học
Phật, tu nhân”.
Về học Phật căn bản
là Tam học : Giới, Định, Huệ.
Về tu nhân là phải
lo báo đáp bốn ân : Ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng
bào và nhân loại. Cho nên về sau, những người tu theo đường lối của Ngài, người
ta gọi là tu theo đạo Hiếu Nghĩa. Về sau người ta đã lập ra Giáo Hội Phật Giáo
Tứ Ân
Những người quy y
với Ngài hay đệ tử của Ngài, họ được cấp cho một Điệp quy, thường người ta gọi
là “tờ phái” hay “lòng phái” là một tờ giấy vàng, có in dấu son chữ
Hán: Bửu Sơn Kỳ Hương, nên cũng được gọi là Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
V - Môn nhân đệ tử:
Về
đệ tử, đức Phật Thầy có 12 vị lỗi lạc nhất được gọi là “Thập Nhị Hiền Thủ”, nay
chỉ còn biết một số vị:
A)
Đức Cố Quản Trần Văn Thành (? - 1873): Người
làng Bình Thạnh Đông, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, làm chức Chánh Quản Cơ dưới
thời Thiệu Trị và Tự Đức. Ông quy y với đức Phật Thầy ở Xẻo Môn, sau khi đức
Phật Thầy vào núi Sam cất chùa, ông giao hết ruộng đất, nhà cửa cho cháu, rồi
đưa cả vợ con theo đức Phật Thầy, ông được giao cho trông nom trại ruộng ở Láng
Linh. Sau khi 3 tỉnh miền Tây mất, ông có chiêu binh chống lại Pháp, ở Bải Thưa
và Láng Linh, một trận Pháp bao vây năm 1873 ông bị mất tích, nghĩa quân tan
rã. Một đời của ông vì đạo, vì nước, đúng với tôn chỉ tu nhân của đức Phật
Thầy. Ông là đệ tử đầu tiên của đức Phật Thầy, vừa cao niên, lại có chức phận
Chánh Quản Cơ đàng cựu, nên người đời tôn xưng ông là đức Cố Quản. Ông được
Phật Thầy giao cho cắm bốn cây thẻ quanh vùng Thất sơn, một cây ở Kinh đào, một
cây ở Vĩnh Hanh, còn hai cây kia người ta không nhớ, đức Phật Thầy dạy về sau
đừng ở trong khu vực bốn cây thẻ đó, vì khi tới đời, núi nổ có đền đài cung
điện, đá văng sẽ chết người.
B)
Ông Tăng Chủ (?): họ Bùi, không rõ tên thật, không vợ không con, có lẽ
vì ông làm chủ trại ruộng, sống như vị Tăng cho nên người ta gọi ông là Tăng
chủ - có người cho là đức Phật Thầy đặt tên là Tăng Chủ- và ông cũng thường
ngồi thiền để tu luyện như một thiền sư, cho nên ngày nay mộ bia ông ghi: “Tăng
Chủ Bùi Thiền Sư”.
C)
Ông Đình Tây (1802 - 1890): Tên
thật là Bùi Văn Tây, không rõ gốc tích (có người cho là gốc gác ở Năng Gù,
huyện Châu Thành tỉnh An Giang, điều nầy chắc không đúng, vì kẻ viết bài là
người Năng Gù, chưa từng nghe ai nói như vậy), là cháu cũng là con nuôi của ông
Tăng Chủ, người được đức Phật Thầy giao cho những vật để bắt sấu thần gọi là
“Ông Năm chèo”.
D)
Ông Nguyễn Văn Xuyến (1834 - 1914): Còn gọi là Đạo Xuyến, quê ở Ba Giác, Mõ Cày tỉnh Bến
Tre, quy y với đức Phật Thầy khi ông lên 17 tuổi, cách đi giảng đạo của ông là
đi ghe giăng buồm chạy trên sông, khi hết gió ngừng lại chỗ nào thì giảng đạo
chỗ đó, ông đi quanh vùng Long Xuyên, Rạch Giá, Hà Tiên giảng đạo. Ông có dựng
chùa Châu Long Thới ở Cái Dầu, Châu Đốc.
E)
Ông Đạo Ngoạn (1820 - 1890): Tên
thật là Đặng Văn Ngoạn, người làng Nhị Mỹ, Cao lãnh tỉnh Đồng Tháp. Ông có lập
chùa ở Trà Bông (Cao Lãnh) và có nhiều đệ tử ở đây.
G)
Ông Đạo Lập (?): Tên thật là Phạm Thái Chung,
quê quán ở xã Đa Phước, còn gọi là Cồn Tiên, ở bên kia thành phố Châu đốc, đối
diện với Châu Giang, gọi là Đạo lập vì ông có lập ngôi chùa Bồng Lai tại Bài
Bài, thuộc xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang. Ông là một cao đệ của
đức Phật Thầy có tài ba, huyền thuật kì bí, Phật pháp ông cao thâm, tín đồ đông
đảo.
H) Ông Đạo Lãnh (?): Còn gọi là ông Hai Lãnh, không rõ gốc gác ở đâu, ông có
vợ là bà Nguyễn Thị Ngôn ở Nhà Bàn, tỉnh An Giang, hai ông bà đều là đệ tử của
đức Phật Thầy. Năm 1859, người Miên nỗi loạn ở Láng Cháy, vợ con chết hết trong
trận nầy, ông mới tu và đắc đạo, trị bệnh cho nhiều người, sau lên Gò Sặt ở
Kampuchea hành đạo, có nhiều đệ tử người Miên. Ông tịch và thiêu ở nơi đây. (2)
VI - Những vấn đề cần nêu lên:
- Đức Phật
Thầy trị bệnh bằng phù phép: Điều nầy hiển nhiên, cho chúng ta biết
Ngài có thần thông hay quyền năng, Ngài dùng nó để cứu dân, độ thế và đệ tử
chân truyền của Ngài cũng dùng nó để cứu nhân độ thế, khuyên người ta ăn hiền ở
lành, lo niệm Phật. Những đệ tử không thân cận, đức Phật Thầy không hề dạy pháp
bí truyền.
- Ngài
thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông: Theo bài vị, pháp hiệu Ngài là Minh
Huyên, điều nầy hoàn toàn đúng với phổ hệ Lâm Tế của Thiền sư Đạo Mẫn, được
Ngài Nguyên Thiều truyền ở trong Miền Nam. Gần đây, Phật Giáo tỉnh Đồng Nai, khám
phá ra có ngôi chùa Kim Cương và tháp của Ngài Nguyên Thiều, tọa lạc ở Bến Cá,
gần núi Bửu Long thành Phố Biên Hòa, điều đó càng chứng tỏ Tổ Nguyên Thiều có
truyền đạo ở miền Nam, theo phổ hệ ấy có :
“Đạo
Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên,
Minh Như Hồng Nhựt Lệ Trung Thiên,
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ,
Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Huyền.”
Ngài
Đạo Mẫn là tổ Thiền Tông phái Lâm Tế thứ 31 theo đó chữ Minh thuộc đời thứ 38.
Đức Phật Thầy đã quy y theo dòng Lâm Tế thuộc chùa Giác Lâm, nên sau khi Ngài
tịch, không có đệ tử nào của Ngài là Tăng, bởi vì đệ tử của đức Phật Thầy đều
là cư sĩ, chỉ trừ có Tăng Chủ không vợ con và có lẽ ông hay ngồi thuyền luyện
đạo cho nên được gọi là Thiền sư, vả lại Ngài truyền mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương,
chớ không phải truyền đạo Phật dòng Lâm Tế.
- Phép
thờ cúng khác với chùa chiền: Mặc dầu đức Phật Thầy dạy người ta tu
học theo Phật, nhưng cách thờ cúng chỉ có thờ tấm trần điều, cúng nước lã, bông
hoa và niệm Nam Mô A Di Đà Phật, chớ không có tụng kinh, chuông mõ. Đời sống
thì khai khẩn đất đai làm ruộng nương, tự túc. Dù hình thức bị khép vào Thiền
Tông, nhưng Ngài vẫn thi hành riêng con đường hành đạo của Ngài, lập ra phái
Bửu Sơn Kỳ Hương. Tu rất giản dị, chung lộn với thế nhân để hành Bồ Tát đạo, lo
trị bệnh cứu nhân, độ thế, khuyến giảng để mọi người ăn hiền ở lành, lo làm ăn
và tu tâm niệm Phật.
- Ông
Năm Chèo: Người ta tin nó là con sấu thần, có năm chân (như ghe có năm
chèo, để chèo trên sông nước) mũi đỏ, ẩn mình dưới cù lao nào đó, sau sẽ nổi
lên ở Vàm Nao, há miệng ra ăn thịt tất cả những người không có tu nhân tích
đức. Theo truyền khẩu, một đêm kia đức Phật Thầy vào trại ruộng Thới Sơn
dạy ông Đình Tây đi xuống Láng Linh để cứu người, ông liền tức tốc xuống vùng
đó, có người đàn bà đang đau bụng đẻ, nhà đơn chiếc, ông Đình Tây liền lo cất
chòi, rước mụ cho người ấy sanh (hồi xưa, cách nay chừng 30 năm, ở nhà quê có
người sanh, phải che một cái chòi bên cạnh nhà cho người ấy sanh, rước một bà
mụ vườn để lo đở đẻ, cắt rốn cho trẻ sơ sanh). Gia đình nghèo, người chồng
tên Xinh phải đi câu phược (đi câu cá lóc ban đêm), khi trở về thấy vậy, người
chồng mang ơn vô cùng, sẳn trong giỏ có con sấu mũi đỏ, năm chân, cho là con
vật kỳ lạ nên anh ta biếu ông Đình Tây để đền ơn. Ông Đình Tây nuôi vài năm đã lớn,
nó bỏ đi bắt vịt của người ta để ăn, sự phá hại ấy làm cho nhiều người kêu ca,
ông Đình Tây không bắt nó lại được nên trình cho đức Phật Thầy rõ, Ngài cho
biết nó là con vật linh, sau nầy nó sẽ nổi lên ở Vàm Nao (nơi sông Tiền Giang
và Hậu Giang giao nhau ở vùng Hòa Hảo), nó sẽ ăn thịt tất cả những người không
tu hành, do đó Ngài rèn một lưỡi câu, một cây mum, hai cây lao và đánh một sợi
dây ngũ sắc, giao cho ông Đình Tây để sau nầy, dùng những vật ấy câu bắt con
sấu thần có năm chân, được mệnh danh là “Ông Năm Chèo” đó.
Theo
chỗ chúng tôi nghĩ, con sấu ấy có thật, các vật để câu sấu có thật, ngày nay
con cháu ông Đình Tây ở Nhà Bàn, Châu Đốc còn giữ, nhưng con sấu ấy cả trăm năm
rồi, nó chẳng hề ăn vịt, bắt người nào cả. Đáng lý ra, nó cũng phải nổi lên mặt
nước để thở, để bắt mồi, phải ăn để sống chớ, vậy mà tuyệt nhiên không có những
việc ấy xảy ra, cho nên chúng ta phải hiểu đây là việc đức Phật Thầy dùng làm
CƠ để răn đời, bởi vì ai mà không sợ “sấu tha, ma bắt!”, nhưng khi làm việc ác
nhân thất đức, thì lại không sợ tội phước, chẳng màng đến nhân quả, cho nên
Ngài dùng ông Năm Chèo để răn dạy những người ở ác phải rán mà tu nhân.
- Danh
từ Phật Thầy và Bửu Sơn Kỳ Hương: Chúng ta biết chắc rằng, đức Phật
Thầy có những thần thông, có tấm lòng từ lớn, trị bệnh cứu đời, giảng đạo vang
danh lục tỉnh, làm cho biết bao nhiêu người tin theo, họ tôn xưng Ngài là Phật
Thầy vì đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni được tôn danh là đức Phật Tổ, dưới Tổ là
Thầy, vì lẽ đó mà tôn xưng Ngài là đức Phật Thầy. Còn Bửu Sơn Kỳ Hương,
hiểu nôm na là núi báu có mùi thơm kì lạ, danh tự ấy trước tiên, nó có trong
tên Bửu Hương Các ở trại ruộng Láng Linh (núi Liên Hoa Sơn tục gọi là núi
Tượng, cũng gọi là núi Voi còn có tên là Kỳ Hương, xét ra không có liên quan gì
với chữ Bửu Sơn Kỳ Hương, vì chỉ có Thiên Cấm Sơn hay núi Cấm, mới là nơi quan
trọng, quý báu. Vì theo đức Phật Thầy dạy, sau nầy núi sẽ nổ ra, trong ấy có
đền vàng, điện ngọc, có Minh vương ra đời). Sở dĩ mối đạo của đức Phật
Thầy được gọi là BỬU SƠN KỲ HƯƠNG, vì người nào sau khi quy y với đức Phật
Thầy, ngài đều phát cho đệ tử của mình một tờ phái, trong lòng tờ phái ấy có
ghi chữ BỬU SƠN KỲ HƯƠNG, vì vậy người sau mới gọi Đạo Phật của Ngài là Bửu Sơn
Kỳ Hương.
Theo
sưu tầm của ông Vương Thông, những người xưa kể lại thì :
Chữ BỬU là hiệu Phật Vương,
Chữ SƠN Phật Thầy tin tưởng phước dư.
Chữ KỲ là hiệu Bổn Sư (3),
Chữ HƯƠNG Phật Trùm (4) bốn chữ phải mang.
VII
- Kết luận:
Đạo
Phật thuở miền Nam còn sơ khai, chắc chắn là chưa có tổ chức nề nếp,
giáo Pháp cũng không được chân truyền, người ta tin nhiều nơi Ông Tà, bà cốt,
người ta bị mê tín dị đoan. Đức Phật Thầy ra đời để sửa sang mối đạo, Ngài phải
mượn những phương tiện bùa chú để cho mọi người tin theo, từ đó Ngài mới dạy
người ta làm lành lánh dữ, ăn chay, niệm Phật , dạy người Phật Tử phải có bổn
phận đền trả bốn ân, trong đó có ân đất nước, do đó tinh thần bảo vệ đất nước,
chống Pháp, chống ngoại xâm đã được Ngài gieo trồng từ đó.
Công đức Ngài to lớn biết bao đối
với đạo Pháp và Dân tộc, ảnh hưởng Ngài vẫn còn sâu rộng ở các tỉnh miền Hậu
Giang. Ai có đến núi Sam, hãy vào chùa Tây An viếng mộ Ngài, thắp nơi đó một
nén hương, tâm thành chắc vẫn được Ngài chứng cho; vùng Thất Sơn kia, ngày nào
có người tu, vẫn còn ngộ đạo. Thật là Bửu Sơn Kỳ Hương vậy.
Ngày 23 - 3 - 1997
PHÚC TRUNG HUỲNH ÁI TÔNG
Tham
khảo:
-
Nguyễn Văn Hầu và Dật Sĩ (Trần Văn Nhựt): “Thất Sơn Mầu Nhiệm”, Thiền
Lâm,USA, 1996
-
Tái Lâm: “Ông Sư Vãi Bán Khoai”, Thiền Lâm, USA, 1996
-
Huỳnh Bá Nhệ và Nguyễn Văn Sáu: “Gia Phả Họ Phan và Họ Nguyễn”, Việt Nam,
1974
Ghi
chú:
1
- Chép vào năm 1985, theo bản chép tay của ông Nguyễn Văn Mùi ở Gia Định.
2
- Người ta cho rằng ông Đạo Lãnh là thuộc tướng của đức Cố Quản, điều nầy hoàn
toàn không đúng. Theo quyển gia phả do ông Huỳnh Bá Nhệ, giáo học tại Thị Xã
Châu đốc và ông Nguyễn Văn Sáu, giáo học trường Tiểu Học Chợ Quán lập, có ghi
sự tích ông Hai Lãnh : Ông Hai Lãnh có vợ là bà Nguyễn Thị Ngôn ở Nhà Bàn, tỉnh
An Giang, hai ông bà đều là đệ tử của đức Phật Thầy, năm Kỹ Mùi 1859, Miên nỗi
loạn ở Láng Cháy, ông bị Miên bắt với người em dâu thứ Năm của vợ và mấy đứa
cháu. Bà Ngôn thấy chồng, em dâu là vợ của Năm Tín, và mấy cháu bị bắt, nghĩ
rằng tất cả sẽ bị giặc giết nên bà bồng con vào nhà nổi lửa tự thiêu cả hai mẹ
con, về sau bà cũng hiển linh lắm (ông Sĩ Hiền có đăng một bài báo về sự linh
hiển của bà hai Ngôn, vợ ông Lãnh đã cứu một đoàn nghĩa binh chống Pháp năm
1946, Báo Đuốc Nhà Nam ngày 22 - 6 - 1970), ông Năm Tín trốn gần đó, thấy chị
mình tự thiêu chạy về định cứu, bị hai tên giặc Miên bắt, ông nắm kéo cả hai
tên Miên vào nhà chết cháy luôn.
Giặc
Miên lúc đó, hể ai bị bắt mà có vợ, có chồng thì tha, do đó vợ Năm Tín bèn chỉ
ông Hai Lãnh là chồng, giặc tha cả hai và mấy con của người em. Ông Hai Lãnh
được tha về, vì em dâu nhận mình là chồng, ông cho đó là sự loạn luân, lại thêm
cảnh thê thảm, giặc giết dân làng, vợ con, em vợ bị chết, ông buồn bỏ nhà đi
lang thang (có thể ông đã luyện đạo trong thời gian nầy chăng?), lúc ấy ông
hiển đạo, biết việc quá khứ, vị lai và trị bệnh rất linh nghiệm, cả người Miên
cũng phục ông, nhức đầu, ông lấy tay vỗ lên trán, bệnh khác nặng nhẹ ông cho
uống nước lã dạy niệm Phật sẽ khỏi, ông có chế thuốc cao và bán khoai lang ở
kinh Vĩnh Tế, ông có ra cuốn sấm giảng “Ông Bán Khoai” , vài năm sau ông lên Gò
Sặt tu, bổn đạo ông khá đông là người Miên, sau ông tịch ở Gò Sặt, trong những
vật dụng thiêu với ông, có một cây lọng bằng giấy cán tre không cháy, cháu ông
để thờ, trong nhà trẻ con bệnh, mài cán lọng pha với nước uống thì khỏi. Theo
sự cúng giỗ của cháu vợ (con ông thứ Tư), ông mất vào ngày 14 tháng 4 âm lịch
(không rõ năm nào).
Ông
truyền dạy cho người trong gia đình, khi ra khỏi nhà, khi đi đâu trở về nhà,
lúc lên giường ngủ, lúc thức dậy nên niệm Nam Mô A Di Đà Phật .
3
- ĐứcBổn Sư (? - 1890) tên thật là Ngô Lợi, sanh ở Dội gần Mộc Bài, biên thùy
Việt Miên thuộc Châu đốc, Ngài trị bệnh, truyền đạo, pháp thuật cao cường.
4
- Đức Phật Trùm (?), ông là người Miên, ở Sóc Lương Phi, núi Tà Lơn, tịnh Biên,
Châu đốc, năm 1868, ông bị bệnh thời khí chết, rồi sống lại, nói tiếng Việt,
bắt vợ con ăn ở như người Việt, ông hay dùng đèn sáp đốt cho bệnh nhân xem và
ngửi mà hết bệnh, nên còn gọi là ông Đạo Đèn, còn ông tự xưng :
Tuy
là phần xác của Mên,
Hồn
Trùm của Phật xuống lên dạy đời.