|
Mộ ông Tăng chủ Bùi thiền sư |
Thất Sơn thuộc huyện Tịnh Biên, An Giang. Những năm đầu thế kỷ 20 trở về trước, cái tên “Thất Sơn huyền bí” nói lên sự bí hiểm của một vùng đất biên thùy cực Nam nước ta. Thời đó nơi này là giang sơn của ác thú và bệnh tật hoành hành, nhưng cũng là nơi các đạo sĩ, nhà sư đến tu tập hoặc hành thiện cứu đời, các nhà cách mạng trú chân kháng Pháp. Học giả Pháp P. Gourou từng viết trong quyển “L’utilisation du sol en Indochine Francaise”, rằng Thất Sơn là một nơi độc đáo nhất Nam kỳ.
Trại ruộng Thới Sơn nằm trong Thất Sơn gần như đã chìm vào quên lãng hơn trăm năm nay, nhưng…
Từ tỉnh lộ 948 rẽ vào con đường đất chừng 500m đầu tiên đã thấy đình Thới Sơn to lớn nằm bên tay phải. Núi Kéc bên kia đường. Mấy chiếc xe khách 60 chỗ đậu trên bãi đất rải rác bóng cây. Quanh hành lang đình, nơi nhà khách, những người hành hương từ nhiều nơi tụ năm tụ bảy chuyện vãn, kẻ nằm, người ngồi mặt đượm vẻ trầm tư. Có lẽ nhiều người đang nhớ về một thời xưa mở đất và lòng yêu nước của ông cha ta.
Chuyện kể rằng, ông Đoàn Minh Huyên sanh ngày rằm tháng 10 năm Đinh Mão (1807) tại làng Tòng Sơn (Cái Tàu Thượng, Sa Đéc, Đồng Tháp hiện nay). Năm 1849, có trận dịch hoành hành tại làng Tòng Sơn, ông ra tay cứu chữa dân chúng. Ông cũng là người khai sáng giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Với cách tu không chú trọng hình thức, không ăn chay, không thờ tượng, không xây cất chùa chiền, Đoàn Minh Huyên thu nhận nhiều tín đồ. Trong số tín đồ ấy có các đại đệ tử: Trần Văn Thành, người đã đưa tín niệm vào lòng tín đồ khiến họ hăng hái tham gia chống quân Pháp xâm lược để “đền ơn quốc vương thủy thổ (theo nghĩa ơn Tổ quốc) bảo vệ vùng núi Cấm, nơi Phật sẽ xuất hiện, mở vận hội mới cho toàn thể loài người” (Sơn Nam, “Lịch sử đất An Giang”), kế tiếp đó là cụ Đình Tây và cụ Tăng Chủ.
Khi ông Đoàn Minh Huyên về tu tại Tây An Cổ Tự (núi Sam, An Giang) được tín đồ tôn gọi “Phật Thầy Tây An”. Năm 1851, ông dẫn một số tín đồ khai hoang vùng Láng Linh và Thới Sơn, cắm thẻ quanh vùng Thất Sơn. Buổi đầu, dưới sự hướng dẫn của hai đệ tử là Tăng Chủ và Đình Tây, hàng ngàn tín đồ đã cày sạ lúa tại Xuân Sơn và Hưng Thới, sau gộp lại gọi là Trại ruộng Thới Sơn. Trại ruộng là nơi cung cấp lương thực cho hàng ngàn gia đình tại đây ăn no, có sức đánh giặc Pháp xâm lược.
Bây giờ trại ruộng năm xưa đã chia tách thành nhiều mảnh nhỏ do nhiều người khai thác. Nhiều nơi trở thành vườn cây ăn trái… Khách đến thăm nơi này được nghe kể nhiều huyền thoại về hai đại đệ tử của Phật Thầy Tây An hơn trăm năm trước: Cụ Đình Tây tên thật là Bùi Văn Tây. Cụ Tăng Chủ tức Bùi Văn Thận, còn gọi Bùi Thiền Sư. Họ là những người có đức lớn, đạo pháp uyên thâm, võ dũng phi thường nên rất được dân chúng tôn kính. “Ông Tăng võ nghệ rất giỏi, hình vóc to lớn, miệng rộng tay dài, bàn tay buông xuống chí mày đầu gối, chân tay mọc lông dầy bịt, tiếng nói sang sảng như sấm mà tâm tính hồn nhiên, quả quyết. Ông đã làm chúa tể của chúa sơn lâm ở đây một thời” (Nguyễn Văn Hầu, “Nửa tháng trong miền Thất Sơn”). Một lần cọp về xóm vào chập tối, người người rút lên gác, đánh mõ tre báo động. Ông Tăng Chủ cầm mác thong đánh cọp. Cọp nhảy tràn tính phủ mình ông, ông nhanh nhảu ngồi thụp xuống, dựng đứng mác thong, một tay thủ thế. Cọp né sang một bên, ông Tăng Chủ “đấm lẹ vào hông nó một quả đấm thôi sơn và thuận chân bồi thêm vào hạ bộ nó một miếng đá nặng đòn. Cọp rống lên một tiếng vang rừng rồi ngã lăn bất tỉnh” (Nguyễn Văn Hầu, sđd). Ông vực cọp dậy, khuyên bỏ tánh hung hăng, nó nghe theo, lẳng lặng rút vào rừng sâu. Ông Tăng Chủ còn đánh cọp nhiều lần và đều tha hết. Chuyện còn kể một bữa đi rừng ông Tăng Chủ thấy một con cọp nằm với dáng khổ sở. Ông hỏi bộ mắc xương hả? Cọp gật đầu. Ông giúp lấy cục xương ra khỏi họng nó. Mấy hôm sau nó tha một con heo rừng to lớn đến tạ ơn ông…
Có thuyết nói đình Thới Sơn do Đoàn Minh Huyên và các đệ tử xây dựng vào năm 1851 để thờ vị thần chủ quản vùng đất mà họ đến khai phá. Ban đầu đình được xây cất bằng cây rừng, mái tranh, vách lá, nền đất. Năm 1945, đình bị quân Pháp đốt. Năm 1956, đình được người dân dựng lại với khung sườn bằng gỗ, lợp ngói, nhưng lại bị bom đánh sập. Sau năm 1975, dân làng xây dựng lại đình, tồn tại đến ngày nay. Đình có lối kiến trúc cổ lầu, ba bộ nóc, mái nhị cấp, lợp ngói Phú Hữu, tường xây, nền gạch men, bốn cột chính bằng bê tông cốt sắt có đường kính 60cm biểu trưng cho “tứ chúng”. Trước đình là cổng tam quan có mái che cổ kính. Sân đình có bàn thờ Tổ quốc, Thần Nông và các miếu thờ Sơn Quân, Bạch Mã, Chiến sĩ trận vong… Nội thất đình trang trí nhiều màu sắc, các khánh thờ chạm khắc công phu, sắc nét với các đề tài: Bát tiên, cuốn thư, hoa, điểu thú. Đình thờ Thần hoàng bổn cảnh, trước hương án có cặp hạc đứng trên lưng quy chầu thần. Hai bên tả, hữu có các bàn đối xứng thờ Tiền hiền, Hậu hiền. Có võ ca làm chỗ diễn tuồng hát bội trình thần vào các ngày đại lễ kỳ yên. Ngoài cổng là một hồ nước rộng chứa nước sinh hoạt cho cả vùng. Hồ nước nầy, theo truyền thuyết, là nơi ông Đình Tây lén Phật Thầy từng thả nuôi một con sấu hung dữ có tên “Ông Năm Chèo”.
Hồ nước xung quanh cẩn đá xanh, trồng bông súng, lưới mắt cáo phía trên tường rào xi măng cao chừng nửa thước. Đi vòng theo bờ hồ về phía tay phải trước cửa đình một đỗi thấy một chiếc cổng sơn vàng chữ đỏ, ghi: “Mộ Ông Thiền Sư Bùi Tăng Chủ”. Hai cột cổng là đôi câu đối: “Thiền sư tánh tịnh lìa biển khổ/Tăng Chủ tâm thành khỏi sông mê”. Vào cổng là phần mộ ông Tăng Chủ, trên nền tam cấp, mái nóc bằng, riềm mái sơn đỏ với hoa văn. Hai cột trước mộ có cặp liễn đối ca tụng công đức của Bùi Tăng Chủ. Trước cổng mộ, nơi vòng rào hồ, sát đất là hàng cột xi măng, cao khoảng năm tấc. Ông Lê Văn Thiết, 90 tuổi, là người thường xuyên có mặt tại đình, lụm cụm chỉ cho chúng tôi xem bên dưới ba chiếc cột vòng rào có hai chiếc cột nhỏ, bảo đây là nơi ông Tăng Chủ đã từng xiềng ông Năm Chèo.
Theo truyền thuyết, một hôm Phật Thầy sai ông Đình Tây xuống Láng Linh để đỡ đẻ cho một phụ nữ ở một căn chòi giữa đồng. Khi mẹ tròn con vuông, người chồng tên Xinh chuyên nghề săn bắt rắn, về tới chòi lạy tạ ơn và biếu ông Đình Tây một con sấu con vừa bắt được. Đây là một con sấu dị hình: mình màu đỏ, lốm đốm bông, có năm chân. Ông Đình Tây thấy lạ đem về nuôi chơi. Về Thới Sơn, ông cho Phật Thầy Tây An xem. Phật Thầy bảo đó là con quái vật, phải giết đi để tránh hậu họa. Ông Đình Tây tiếc nên giấu đem sấu xiềng trong hồ sen. Vì có năm chân nên con sấu được gọi là ông Năm Chèo. Ba bốn năm sau, sấu trở nên to lớn, có thể quật được người. Một đêm mưa gió, sấu bứt xích sắt bỏ đi. Ông Đình Tây sợ sấu gây tai họa nên đến thú tội với Phật Thầy. Phật Thầy trao cho ông một cây mun, một lưỡi câu và hai cây lao đều làm bằng sắt để trừ diệt ác thú. Sau khi Phật Thầy viên tịch, ông Năm Chèo thường xuất hiện ở Láng Linh gây tai họa cho nhân dân. Khi ông Đỉnh Tây đem khí giới tới thì nó trốn mất. Nhiều lần không bắt được sấu, cuối cùng ông Đình Tây nói: “Nếu sấu thần chưa tới số, thì đừng phá hoại xóm làng, còn như nay căn đã hết, thì hãy sớm chịu oai trời, đừng để phải phiền ta” (Võ Thành Phương, “Tìm hiểu An Giang xưa”). Từ đó không ai thấy ông Năm Chèo xuất hiện đâu nữa. Trong “Nửa tháng trong miền Thất Sơn, tác giả Nguyễn Văn Hầu cho biết: “có người nói khi Tây bố binh Gia Nghị (Đạo binh do Quản Cơ Trần Văn Thành chỉ huy kháng Pháp từ 1868 đến 1873), nghĩa quân rút lui nhưng vì lúa dầy quá thuyền chống không đi, thì ông Năm Chèo xuất hiện làm lúa rạp một luồng cho thuyền theo đó mà chống. Danh ông Năm Chèo vang dội cũng bằng danh ông Đình Tây”.
PHÙ SA LỘC