Thừa nhâm (1) Hổ Cứ (2) bước sang,
Tháng heo (3) giáo giác kiếm đàng chạy ra.
Nhiệm mầu vui đạo Thích Ca,
Thiền môn hứng chí Di Đà lòng chuyên.
Nương thuyền bát nhã cho yên
Vào non ngũ uẩn tín thiềng sùng tu
Hiếu trung trọn (4) giữ một câu
Bãi tiên suối hạc cầm câu đợi chờ
Liếc xem thuyền bá bo vơ,
Sóng khơi biến thảm dật dờ sông mê!
Bớ ai ăn ở vụng về,
Không lo nước lửa nhiều bề chông gai.
Bởi mình, ai dễ mặc ai,
Để cho sa sẩy mình chôn lấy mình.
Phật Tiến chí hiển chí linh,
Một câu chánh niệm thì mình thảnh thơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Nhơn từ phải giữ đừng lời trớ trinh
Biến đời cuộc thế thình lình,
Thiện tồn ác thất (5) thiên đình số phân
Vần xây thế giái phàm trần,
Sự mình không biết mưu thâm ở người
Hư nên nhờ phận, Phật Trời,
Non băng đất lở giữa vời linh dinh
Phải làm như bổn nhựt trình (6)
Trẻ già xin nhớ giữ gìn mà coi.
Niên như điển, nguyệt như thoi (7)
Vần xây thế giái luân hồi chẳng chơi!
Có người thiện nữ truyền lời,
Nhứt Vân thiên lộ máy trời thinh thinh.
Nhị Vân thánh ứng quang minh
Tam Vân triều hội gia đình phân
Ngó xa xem cũng thấy gần,
Xa gần gió tạc bụi trần sạch không.
Hắc đầu tử, bạch đầu ông (8)
Bớ người dương thế sao không coi đời.
Đạo vơi vơi, đạo vơi vơi,
Đường xưa cảnh cũ lập đời sửa xây.
Buồn khoanh tay, buồn khoanh tay!
Thấy trong con tạo khéo xây lạ lùng.
Đời bạo ngược ít (người) hiếu trung,
Miệng thời toan tính, lòng dùng mưu sâu.
Thiện phùng thiện ác đáo đầu,
Oan oan tương báo ai hầu cứu cho.
Thằng mà tính, thẳng mà lo (9)
Thiên đường hữu lộ phải dò nẻo đi,
Nghe chi những tiếng thị phi,
Trách con mắt thịt vậy thì chẳng coi.
Mở hai con mắt thồi lồi,
Nước xao sóng dợn ầm ầm bên tai.
Cực bớ ai, cực bớ ai.
Cám thương trần thế dạy hoài không nghe.
Nước gần lớn gió đưa bè,
Giữ cầm lèo lái một bề thuận theo.
Dặm cheo leo, cảnh cheo leo.
Một mình khó nỗi chống chèo đặng đâu!
Làm sao chẳng xét trước sau,
Khinh khi chú lái ai hầu rước đưa.
Người đời như buổi chợ trưa,
Tan rồi lại hiệp, hiệp tan mấy hồi.
Khóc lỡ khóc, cười lỡ cười,
Tình tang hỡi bậu, cạn đời còn chi!
Lệ lâm li, lụy lâm li,
Thương chăng thương kẻ từ bi giữ lòng
Lọc nước trong, lọc nước trong,
Sợ chi lũ kiến chòm ong chơi bời,
Ăn nhịn miệng, nói nhịn lời,
Mặc tình thế sự chê cười mặc ai!
Dốc cầu đặng chữ Như Lai,
Phủi câu danh lợi mặc ai tranh tài.
Cảnh thiên thai, chốn thiên thai,
Chí công luyện sắt giồi mài nên kim.
Cảnh rất nghiêm, cảnh rất nghiêm,
Muôn thu xây dựng khó tìm đặng đâu.
Buồn dàu dàu, buồn dàu dàu,
Hỗn ngươn xoay lại đời nay mơ màng.
Mèo kêu vang, mèo kêu vang.
Rắn rồng sợ chạy vào ngàn ẩn thân.
Ngọn cờ phất, trống thùng tan,
Kẻ lên người xuống hai đàng khác nhau.
Quặn ruột đau, quặn ruột đau,
Phật Tiên thương chúng dạ sầu héo khô.
Gắng công (thường) lục tự nam mô,
Họa may cá suối gặp hồ liên hoa.
Phật trời lòng lại xót xa,
Giáo trong thiện chúng Long Hoa mà thờ.
Gió đưa ngọn cỏ phất phơ.
Sẽ coi cuộc thế như cờ bị vây
Cảnh đã xây, cảnh đã xây,
Nhành lai đời khác, đổi thay cuộc đời.
Xem trong máy tại hết rồi,
Ngửa ngiêng biển thẳm rã rời bờ ao!
Thuyền ai chạy tới sông đào,
Thuyền ông Bát nhã Phật vào độ dân
Khuyên người sớm xả bụi trần,
Dắt cho khỏi chốn mê tân bớ người!
Súc sanh ngạ quỉ là loài,
Màng chi những chốn lạc loài đọa thân
Tây phương thắng bước chơn lần,
Hưởng nhờ muôn thuở bửu châu thiếu gì
Tín thành truyền dạy vân vi,
Bớ người lớn nhỏ sao không giữ gìn!
Nay xem cảnh thế thình lình,
Vô thường quỉ dẫn ai bình đặng nào.
Sớm còn tối mất lao đao,
Tỉ như trời chớp, sáng nào đặng lâu.
Dặm canh thâu, dặm canh thâu!
Thở than than thở lo âu cho đời.
Nghĩ trong cuộc thế vơi vơi,
Khổ răng già khổ trong đời gian nan.
Kìa kìa quỉ mị khởi loàn,
Xà thường hổ giảo (10) đa đoan hội này.
Phần thời giặc giã phủ vây,
Phần thời đói khát thân rày chẳng yên.
Lăng xăng nhiều cuộc đảo điên,
Sợ trong thế sự như thuyền chạy khơi
Đã hết lời, đã hết lời,
Khuyên răn dạy biểu cho người thiện duyên.
Trách lòng nhiều sự chẳng kiêng,
Ốm đau cầu giảm, an thuyên chẳng màng.
Biến sanh những sự tà gian,
Hủy tăng phá giới (11) lòng toan hại người.
Thế nay cạn , sự đã rồi!
Mở mang dời đổi Lập Đời Thượng Ngươn.
Chuyển luân thiên địa tuần hườn,
Hội này thấy lửa tàm lam cháy mày.
Ít ai tỏ biết đặng hay,
Ví như cầm chén rủi tay bể rồi!
Thầy xưa lời dặn hẳn hòi,
Thực nhơn nhơn thực đến hồi chẳng không.
Oan oan tương báo chập chồng,
Tham tài tích đại, (12) mình không xét mình
Khiến xui phụ tử tương tranh
Cha không lành thảo con lành đặng đâu
Trung quân, phụ tử (13) làm đầu,
Phản quân, sát phụ, hỡi câu sách nào?
Trời xui trăm vật trăm hao,
Để cho đồ khổ, xiết bao nhọc nhằn.
Ngọn phù thủy (14) cuộc đất xây,
Rồng nằm đáy biển, sông hằng hứng sương.
Bao giờ hưởng thọ Kỳ Hương (15)
Tuế tăng vạn tuế lưu phương lâu dài.
Sanh thân này khổ bớ ai,
Trăm ngàn việc khổ chất hoài vô thân
Phú hết phú, bần hết bần,
Thân vong tài tán quan dân cũng đồng.
Khiến xui vợ lại giết chồng,
Con mà hại mẹ tình không yêu vì.
Anh em đồng khí tương li
Quân thần phản nghịch thế thì (16) Hạ Ngươn
Đổi dời hải thủy băng sơn,
Tiêu đường quỉ mị, nghĩa nhơn Lập Đời.
Tam Ngươn qui dựng lại rồi,
Tang điền thương hải rã rời đổi xoay.
Lần lần tay tính tối ngày,
Người nay như thế thấy rày lại không
Chữ rằng nhơn vật dữ đồng (17)
Vật còn biết tánh người không tỏ tình.
Ngồi buồn than trách một mình
Thương trong thế sự thình lình tiêu tan.
Đua nhau rượu thịt nghinh ngang,
Chưỡi cha mắng mẹ, nhiều đàng ngược xuôi.
Biến sanh thấy sự hẳn hòi
Tử nhi vô hối (18) hết đời tà ma
Nhiệm mầu thuyền đạo Thích Ca,
Quan Âm (19) cứu khổ, Di Đà độ sanh.
Non đoài giữ dạ tín thành,
Thầy cho Cư Sĩ học hành chưa thông.
Anh em ai có phục tùng,
Theo tôi học đạo phải dùng tai nghe.
Phật truyền chưởng thọ Bồ Đề,
Giữ câu minh chánh chớ hề sai ngoa.
Muốn cho vào (20) chốn ta bà,
Phương tiện bố thí hà sa phước gìn.
Kỉnh Trời kỉnh Đất, Thần Minh,
Tông môn phụng tự giữ toàn Tứ Ân.
Sanh tại thiên hiếu song thân,
Một hậu vi nghĩa ân cần sớm mai.
Trung quân lòng giữ chẳng sai,
Giồi câu tiết chánh tỏ bày bia son.
Mình tu phải dạy cháu con,
Đạo truyền kế đạo Phật môn lâu dài.
Thích Ca Phật tổ Như Lai,
Lục niên tân khổ chẳng nài nhọc công.
Đến nay về hạ thần long,
Tỉ như thuyền nhỏ bị phong giang hồ.
Di Đà lục tự Nam mô,
Vãng sanh Tịnh độ ra vô thanh nhàn.
Thoát nơi khổ hải mới sang,
Lánh vòng trần tục khỏi đàng tử sanh.
Phận tôi Cư Sĩ tín thành,
Thầy truyền dạy chúng làm lành tu thân.
Hạ ngươn cuộc thế cũng gần,
Tỉnh tâm tự giác ân cần cho mau.
Chuyện tu chẳng khó ở đâu,
Lấy câu bố thí làm đầu rất nên.
Thiên thần biên chép đôi bên,
Thiện tăng ác giảm hư nên lời truyền.
Thưở xưa Phật dạy chẳng tin,
Kẻ nghe người bỏ, nói mình khôn ngoan.
Tham tài dưỡng vật đa đoan,
Để nuôi thân thịt không toan nghe lời.
Sát sanh hại vật ăn chơi,
Gian phu dâm phụ nhiều lời trớ trinh.
Thấy rồi mình lại tủi mình,
Nói ra thời tệ làm thinh thêm sầu.
Cao bay xa chạy khỏi đâu,
Mắc trong lưới nhặt dãi dầu khá thương.
Phật Tiên tương hội ai tường,
Cứu sanh độ tử mỗi đường trần gian.
Giáo khuyên trần chúng nhiều phang,
Giữ câu nhẫn thiện lòng toan tu hành.
Chứ (21) lời đừng có đua tranh,
Bồ Đề một hột tâm thành đặng siêu.
Long Hoa thắng hội tiêu diêu,
Dữ lạnh đến đó mai chiều sẽ hay.
Phận mình Cư Sĩ dám bày,
Luật nghi phép tắc diễn bài tỏ ra.
Nhứt Ngươn Đức Phật Thích Ca,
Giáng sanh cõi thế Long Hoa hội kỳ
Người sanh bá tuế sở qui,
Bá niên giảm thọ hạ di thiếu thời.
Giảm chí tâm thập đến nơi,
Người cao ba thước là đời cơ nguy.
Tai ương khỗ não nhiều kỳ
Giảm chí vậy thì nay thiệt chẳng sai
Người cao hai thước chẳng dài,
Ôn hoàng tật bịnh liên lai khốn nàn.
Giảm chí thập tuế bước sang,
Người cao một thước tai nàn bớ dân.
Thiệt là đại biến phàm trần,
Vạn nhơn nam nữ thẳng lần sơn trung.
Sách còn ghi nói chẳng không,
Con gái có chồng ngũ ngoạt thành song.
Mạt hạ phong tục long đong,
Thần hôn (22) quốc loạn người không y người
Oan hình, lao ngục khắp nơi,
Nhãn tiền tựu thị (23) là nơi để dành.
Thác về lục đạo tứ sanh,
Tiền đạo, nhơn đạo phước mình thảnh thơi.
Tu la, Ngạ quỉ là loài,
Súc sanh, Địa ngục nhiều tai khốn nàn (24)
Tứ sanh phân nói rõ ràng,
Noãn, thai, thấp, hóa là phang luân hồi (25)
Trì trai, giái sát bớ người,
Cảnh trên Tịnh Độ là nơi để dành.
Làm người cho biết hiền lành,
Vãng sanh vi đại cứu chư các loài
Thánh thần minh chánh thiện tai (26)
Ác sát mỗi vật đầu bài vi tiên,
Chúng sanh nhiều việc đảo điên.
Sát sanh hại mạng không điên đất trời.
Đổi thừa sát hại ăn chơi,
Sau về địa ngục tội hành không dung.
Sát hại tà dâm tội hung,
Vọng trôn trá ngữ thiên công gia hình.
Lưỡng thiệt ác khẩu trớ trinh,
Người tuy chẳng thấy, tội mình nhiều thay.
Tham lam gian giảo vậy vay,
Ngục hình dành để đợi khi luân hồi
Bất hiếu phụ mẫu nghịch lời,
Cha sanh mẹ dưỡng là nơi ơn dày.
Âm quan (27) về đến mới hay,
Hành hình phân xử đêm ngày khóc than.
Bất kính Tam Bảo rõ ràng,
Khinh khi Phật Pháp nhiều đàng thinh linh.
Làm người tự giác tự minh,
Phật tiên mến tưởng Thiên đình cũng thương.
Tu tâm tu tánh giữ thường,
Tu trong kính giáo Phật Đường truyền ra.
Tu tánh tu hạnh nết na,
Tu câu Lục tự Di Đà đừng quên.
Tu hành hiếu nghĩa đôi bên.’
Tu cang tu kỷ gắng bền hiếu trung.
Tu nhơn tu đức để lòng,
Tu trau vóc ngọc lấm bùn đừng mang.
Tu công bồi đấp miếu đàng (28)
Tu tài bố thí việc gian thì đừng
Tu cầu thánh tọ thiên xuân,
Dân khương vật phụ (29) khỏi oan cơ hàn.
Tu cầu vạn hải thiên san,
Hà thanh hưng vượng (30) vạn bang thái bình.
Thần hôn (31) lạy Phật đọc kinh (32)
Lạy Thầy đức hóa tái sanh đạo mầu.
Sông sâu cá lội thấy đâu,
Minh mông trời rộng chìm hầu bay cao.
Giác thời đặng hưởng thiên đào (33)
Mê thời địa ngục, ngày nào đặng sanh?
Tay mình lại chặt lấy mình,
Mắt thời thấy đó làm thinh không rằng.
Tai nghe tội phước lăng xăng,
Đau thời tưởng Phật, hết rằng thời thôi!
Kiếm lời dễ cảm khua môi,
Khen chê phải chẳng nói thôi chi màng.
Dị đoan án nội rõ ràng,
Diêm đình tội để khó toan luân hồi.
Kinh rằng Phật dạy cạn lời,
Giác thời đặng thấy, mê thời thấy đâu.
Chốn vui chốn khổ thêm sầu,
Đục trong hai ngã toan âu nẻo nào?
Hửu duyên đặng hưởng quyền cao,
Vô duyên lại gặp thân sau cơ bần.
Lời vàng tạc để thiên lân (34)
Có đâu trễ nải quá chừng dân ôi!
Nước non nay đã cạn rồi,
Nào hay vội lỡ một hồi Pháp Cơ.
Mê man nhiều nỗi dật dờ.
Hồn bay phưởng phất như tơ lộn cuồn.
Thoát qua như ngọn tên bay,
Khác quê, khác xứ, khác nay thú cầm.
Đêm ngày mù mịt tối tăm,
Hồn sa phách lạc mới nên luân hồi.
Mở mang xoay lại Lập Đời,
Khoác loài thú vật khác người tân dân.
Còn người Phật Thánh Tiên Thần,
Yêu ma nào có loạn trần được đâu!
Tóm thâu thể giải một bầu,
Phật trời phân định đâu đâu thái bình.
Nay đà gặp Phật giáng sanh,
Khá khuyên bá tánh làm lành tu thân.
Sự đời xem thấy cũng gần,
Trở người trở vật trở năm trở ngày.
Trở ăn trở mặc bằng nay,
Trở chồng, trở vợ, trở vì quân vương
Trở non, trở núi, trở vườn,
Trở trâu trở ruộng trở đường nào ra.
Trở thời trở tiết những là,
Trở cây trở trái bông hoa trở kỳ.
Trở bậu trở bạn cố tri,
Lời ăn tiếng nói vậy thì khác xưa.
Trở lòng, ăn nói đẩy đưa,
Trở căn trở bịnh thuốc xưa trị nào!
Đời nay ma quỉ loạn vào,
Pháp linh phù thủy cứu nào đặng chăng!
Làm người chớ cậy tài năng,
Mai thì thấy đó, tối rằng thấy đâu.
Có khi hơi thở ra vô,
Đứt hơi nào biết qui mô chốn nào!
Sanh tiền mình chẳng biết sao,
Tử về âm cảnh hồn vào ngục môn,
Nhứt nhựt tam đả oan hồn (35)
Oan thân nghiệt trọng ai hiềm cứu cho
Nhãn tiền sao chẳng biết lo,
Sông không cầu bắc mướn đò ai đưa?
Để cho khát nước quá trưa,
Ra công đào giếng cù cưa đặng nào.
Thuở còn trai tráng dương bao,
Sao không tụ tập già nào biết đâu.
Xưa sanh tánh thiện làm đầu,
Lớn khôn tích ác mình âu hại mình.
Thiền sanh nhơn hữu tánh linh,
Mê trần mê lẫn tại mình trách ai.
Tôi làm một mảy chẳng sai,
Xin người tự hối giồi mài tánh linh
Để cho mình buộc lấy mình,
Thê thằng tử phược (36) linh đinh không rời.
Ta bà là (37) chốn thảnh thơi,
Vui câu bát nhã gần với ma ha.
Đói thời nhờ ruộng Thích Ca,
Khát thời nhờ nước Phật Bà dưỡng thân.
Lời Thầy xưa có cạn phân,
Nương câu thanh tịnh dõi lần đường mây.
Mặt trời chinh xế bóng cây,
Giồi câu tứ trí tánh hằng học khôn.
Tu hành chi luận giàu nghèo,
Vùa hương bát nước mai chiều giữ coi.
Hữu tình Trời Phật xét soi,
Màng chi nhiều ít heo đòi không nên.
Lưỡng thần cầm sổ đôi bên,
Chép ghi tội phước tâu lên cho người.
Ngọc lành sao chẳng trau giồi,
Sá chi phấn thổ (38) vui cười tay trao.
Chẳng coi trước, chẳng nhằm sau,
Người nay như mộng thấy đâu cho bền.
Gương loan sáng tỏ dưới trên,
Ngựa hồng cất chạy xuống lên hai đường.
Phất qua như bóng nguyện quang,
Khi tròn khi khuyết nở tàn dưỡng bao.
Hoa đông hồi lại xuân qua,
Nhỏ không tu tập thì già biết chi!
Buông lời nói chẳng kính vì,
Biết đâu phép tắc lễ ngi chuyện nào.
Sanh thân này khổ biết sao,
Để cho sa sẩy kiếp nào đặng sanh!
Khá khuyên cải dữ làm lành,
Sùng tu Tam Bảo học hành cho thông.
Rắn còn tu đặng thành rồng,
Làm người sao chẳng xét trong thân mình.
Để cho thân chịu linh đinh,
Tai kia họa nọ biến sanh mọi bề.
Dương là cảnh, âm là quê,
Phước mình gánh vác đặng về cảnh xưa.
Hữu duyên Thần Thánh tiếp đưa,
Vì mình thiện niệm sớm trưa lần hồi.
Vắn dài lời nói cạn rồi,
Lạy Thầy trở lại phản hồi bổn gia.
Lầm thầm miệng niệm Di Đà,
Tay lần chuỗi hột lòng ta giữ lòng,
Kỉnh dưng Minh Chúa hưng long,
Dân khương vật phụ thiên xuân thái bình
Phụ từ tử hiếu trung trinh,
Hà thanh hải yến, (39) an ninh trong ngoài.
--- Hết ---
(1) Phải chăng muốn chỉ vào thiên can lúc Đức Phật Thầy trở về Hổ Cứ! Theo đó thì sau Kỷ dậu ba năm, là đến năm Nhâm tí (1852). Lúc đó Đức Phật Thầy đang mở nhiều trại ruộng và Ngài cũng vân du hóa độ nhiều nơi. Bản Nôm viết Thừa nhâm, không viết Thừa nhiệm.
(2) Hổ Cứ là địa danh bên cạnh Tòng Sơn, nên viết là (chữ Nôm) mới đúng.
(3) Bản Nôm chép là Nguyệt Trư tức tháng heo.
(4) Bản Nôm chép toàn (chữ Nôm), đọc là trọn.
(5) Cũng đọc là “Lành còn dữ mất”
(6) Do chữ “Nhựt nhực trình báo” mà ra chữ Nhựt trình.Xưa các quan làm việc, khi có điều gì quan trọng, thì cấp trên buộc cấp dưới phải nhựt trình (trình báo hàng ngày) để hiểu biết, theo dõi và kiểm soát. Cũng do đó mà về sau, khi nước ta bắt đầu có nghề làm bao thì tờ báo được gọi lànhựt trình hoặc nhựt báo (journal). tờ báo đầu tiên xuất bản bằng Pháp văn tại nước ta là tờ Le Bulletin officiel de l’Expe1dition de la Cochinochine do Đô đốc Charner điều khiển 20 số, rồi kế đó là Đô đốc Bonard tiếp tục nhiệm vụ đến số 173. Số đầu ra ngày 29-9-1861. Còn tờ báo đầu tiên xuất bản bằng Việt văn tại nước ta là tờ Gia Định báo, số 1 ra ngày 15-4-1865. Điều khiển báo này do các ông E.Patteau. đến Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của
Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra,
Chép làm một bổn để mà xem chơi.
(Thơ Thầy thông Chánh)
Vậy từ ngữ Nhựt trình theo ý nghĩa những bản vần thông báo để mọi người cùng hiểu, đã có từ rất xưa, còn theo ý nghĩa của thông tin, báo chí thì về sau hơn, nhưng cũng khởi đầu từ 1861, tức cách nay (1973) lâu đến 112 năm.
(7) Năm như chớp, tháng như thoi. Ý nói ngày giờ qua mau.
(8) Con đen tóc, cha bạc đầu.
(9) Thẳng tức thủng thẳng. Cũng đọc là thỉnh thoảng
(10) Rắn cắn cọp ăn
(11) Hủy báng thầy tu và phá bỏ giới luật
(12) Tham của, chất chứa cho đầy túi, phải viết là (chữ Nôm)
(13) Bản Nôm chép phụ tử. Đúng ra là hiếu phụ
(14) Nước nổi. Mực nước dâng lên cao. Miền Nam không gọi mực nước lên vào mỗi mùa thu là mùa lụt, mà gọi là mùa nước nổi.
(15) Chỉ danh xưng tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy.
(16) Tức thời thế, đây chỉ cuộc đời. Không phải như thế thì...
(17) Người và vật cùng đồng nhau về tánh tình, cũng biết mừng giận, đau thương.
(18) Đến chết mà không chịu ăn năn.
(19) Tức Quan Thế Âm Bồ Tát. Không phải Quan Âm Thị Kính.
(20) Có lẽ chữ thoát. Chắc chắn bản Nôm đã chép sai chữ này.
(21) Chữ: ghi nhơ. Nôm viết là (chữ Nôm)
(22) Kẻ bề tôi tối tăm. Phải viết là (chữ Nôm)
(23) Tựu thị: đến đó, lúc ấy
(24) Lục đạo được chia làm hai:Tam thiện đạo và Tam ác đạo. Tam thiện đạo tương đối thảnh thơi, dễ chịu (Tiên đạo, thần đạo và nhơn đạo); còn Tam ác đạo thì nguy nan, khốn đốn (địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh).
(25) Tử sanh cũng gọi là Tứ chủng sanh, gồm có Noãn sanh (sanh từ trong bào thai, như người, khỉ, ngựa) Thấp sanh (sanh từ chỗ ẩm ướt, như cá, rắn, cóc), Hóa sanh (sanh từ chỗ tự nhiên hóa ra, như loài bướm từ sâu mà đổi dạng).
(26) Thiện tai: lành thay, Ý nói rất lành.
(27) Quỉ thần ở cõi âm.
(28) Chỉ triều đình, tôn miếu xã tắc. Nên viết là (chữ Nôm)
(29) Nhân dân và vạn vật đều yên vui và phong phú.
(30) Cảnh yên ổn phát đạt.
(31) Buổi sớm mai và buổi chiều tối.
(32) Nguyên văn chép “bái Phật tụng kinh”, nên Nôm là lạy Phật đọc kinh.
(33) Quả đào ở cõi trời. Cũng gọi tiên đào. Đức Huỳnh Giáo Chủ có câu: Đào tiên tạm thực về ngồi cõi xa. Không phải chữ Đào yêu trong câu Đào chi yêu yêu trong Kinh Thi Trung Hoa.
(34) Ngàn xóm. Xưa cứ năm nhà làm một xóm. Tựa như tiếng bá gia: một trăm nhà. Đây có nghĩa là ban rải ra cùng khắp các nơi.
(35) Hồn oan mỗi ngày bị đánh đập ba lần
(36) Vợ là cái dây, con là trói cột.
(37) Có thể chữ nào bị chép thành chữ là. Chắc chắn người ta đã tam sao thất bổn câu này
(38) Phấn thổ: Bụi đất. Những thứ không ra gì, đáng vất bỏ đi. Có câu “Tiền tài như phấn thổ...”
(39) Sông trong biển lặng. Chỉ cuộc đời thái bình.