Đến hiện thực :
Theo các nhà nghiên cứu đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thì tấm bia được cho là bia Càn Long mà ông đạo Lập tìm ra thực ra không phải là bia ếm gì cả mà là loại cột mốc để xác định chủ quyền của họ Mạc, vì vào năm 1757 Mạc Thiên Tích được vua Chân Lạp cắt đất ban thưởng do đã có công giúp vua Chân Lạp đánh đuổi giặc Xiêm La. Đất phong đó bao gồm Tầm Bôn ( Tân An ), Bôi Lạp ( Gò Công), Trấn Giang ( Hậu Giang), Trấn Di ( Bạc Liêu ), Long Xuyên (Cà Mau) , Kiên Giang, đảo Phú Quốc của Việt Nam và những vùng dọc theo ven biển từ Kampot đến Kompong Som của Campuchia ngày nay; Còn chúa Nguyễn thì được đất Tầm Phong Long bao gồm An Giang, Đồng Tháp,Vĩnh Long, Trà Vinh hiện nay.... Riêng vùng đất Hà Tiên ( Phương Thành) đã được Mạc Cửu dâng cho chúa Nguyễn vào đầu thế kỷ thứ 18 rồi. Sau đó họ Mạc tiếp tục đem những phần đất được ban thưởng này dâng cho Chúa Nguyễn vì biết mình không có khả năng giữ được trước cuộc tấn công của quân Xiêm La. Có lẽ “bia ếm” này là cột mốc xác định ranh giới giữa An Giang và Hà Tiên.
Một số người thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do còn chịu ảnh hưởng tư tưởng về phong thủy của đạo giáo Trung Hoa đã cho rằng con cháu họ Mạc thấy vùng đất Thất Sơn có nhiều linh khí nên đã cắm bia đá để ếm, vì vậy phải nhổ lên và trồng lại cây mới để phá ếm. Nhiều nhà nghiên cứu khác còn liên hệ tấm bia Càn Long này với truyền thuyết Cao Biền cởi diều gỗ bay đi khắp nơi tìm long mạch để trấn ếm nhằm tăng thêm sự kỳ bí của tấm bia này. Điều này mới nghe qua cũng khá hợp lý, vì Cao Biền vốn là một nhà địa lý tinh thông pháp thuật, được nhà Đường phong chức Tiết độ Sứ Giao Châu và trong thời gian làm quan, ông đã đi khắp Giao Châu tìm long mạch để trấn ếm nhằm tránh sự trỗi dậy của người dân đất phương Nam Trung Quốc. Tuy nhiên, thực tế Cao Biền ( 821- 877) đã sống vào triều đại nhà Đường trước nhà Mạc gần một ngàn năm. Vào thời kỳ này, vùng đất Thất Sơn vốn thuộc vương quốc Phù Nam do hải xâm Holoxen IV đã bị chìm trong biển nước, người dân ở đây ly tán khắp nơi thì làm gì còn chỗ cho Cao Biền trấn ếm. Vấn đề này đã được các học giả giải thích rõ trong buổi hội thảo về Thiền sư Đoàn Minh Huyên tổ chức tại huyện Tịnh Biên vào ngày 28 tháng 9 năm 2013. Đồng thời, theo cố nhà văn Mai văn Tạo thì “bia ếm” Càn Long này trước đây được ông Đạo Lập mang về đặt ở chùa Bà Bài, nhưng vào những năm kháng chiến chống Mỹ bị máy bay địch bắn phá nên các cụ già trong làng đem bia này về tại miếu Ngọc Hoàng phía sau lăng Thoại Ngọc Hầu. Sau khi xây cất lại chùa Bồng Lai vào năm 1989, mới đem về đặt lại phía sau chùa ngay cửa vào hậu liêu, trong một miếu thờ nhỏ.
Để đến chùa Bồng Lai du khách có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau. Nếu đi bằng đường thủy thì có thể bắt đầu từ đầu nguồn kinh Vĩnh Tế bằng tắc ráng hay tàu khách tuyến Châu Đốc-Giang Thành. Còn đi bằng đường bộ thì từ gần đình Vĩnh Tế thì rẻ phải vào con đường nhỏ dẫn đến Cống Đồn nằm trên bờ kinh Vĩnh Tế. Sau đó đi theo con đường trãi nhựa dọc bờ kinh khoảng gần 5 cây số là có thể thấy chùa Bồng Lai nằm chơ vơ phía bên kia bờ kinh. Hiện nay có một cầu treo bắc ngang kinh do một Việt Kiều sinh sống tại Mỹ là ông Huỳnh văn Lang hiến cúng, để khách hành hương dễ dàng đến cúng bái chứ không phải chờ xuồng đưa sang bên kia chùa như trước đây, nhất là trong những ngày Vía ông Đạo Lập có hàng chục ngàn tín đồ ở khắp nơi đến cúng viếng.
Chùa Bồng Lai có một đặc điểm khác biệt so với các ngôi chùa khác là phía trước thờ Phật Như Lai nhưng phía sau thì thờ trần điều, Đức Phật Thầy Tây An, ông Đạo Lập và cụ cử Đa - một nhân sĩ chống Pháp sang núi Tà Lơn ( Bokor) để tu luyện pháp thuật hòng giải phóng nước nhà. Ông có công lớn trong việc xác định các loại thuốc quí hiếm có trên núi Tà Lơn. Trong chùa cũng không có hình tượng gì nhiều như các chùa khác.
Bên hông chùa sát bờ kinh Vĩnh Tế, di tích của cây thẻ chỉ còn lại gốc nằm dưới một hố sâu được bảo quản cẩn thận. Phía trên có bệ thờ và bài vị có chữ “ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tây Phương Bạch Đế”. Theo lời người dân kể lại do quá tin tưởng nên một số người có thân nhân đau ốm, bệnh tật lén đẽo cây thẻ này về nhà làm thuốc vì họ cho rằng cây này có thể trị được những bệnh nan y. Sau một thời gian lưu lạc, nhà chùa mới tìm lại được hai mảnh dài khoảng 3 tấc, ngang 1,5 tấc và dày khoảng 6 phân và được đặt bên trong một lồng kiếng bên cạnh bài vị của ông Đạo Lập trên bàn thờ phía sau chùa. Về thân và gốc cây thẻ còn lại nằm dưới hố sâu sau này được đào lên và đặt trong một lồng kiếng, xung quanh được rào bằng lưới thép để người dân có thể chiêm ngưỡng.
Sau khi cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa của Trần văn Thành bị thất bại, ông Đạo Lập rời bỏ làng Bà Bài để tìm đến núi Tà Lơn (Bokor) thuộc Campuchia mong tìm học được pháp thuật để về trấn áp được súng đạn tối tân của người Pháp. Sau cùng ông cũng ngộ ra rằng không phải bằng phép thuật mà chính sức lực của con người mới có thể đánh đuổi giặc ngoại xâm. Ông trở lại chùa Bồng Lai để trị bệnh cứu người và phát triển đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, qua đó sẽ tập hợp một số người để đánh đuổi giặc Pháp. Thấy số người tập hợp trị bệnh khá đông, tiếng đồn vang xa nên giặc Pháp cho mật thám tìm bắt ông nhưng nhờ sự che dấu của người dân nơi đây nên lần nào chúng cũng về không. Chúng quay sang khủng bố các tín đồ nên buộc lòng ông phải ra trình diện. Bọn cầm quyền giam ông tại nhà ngục Châu Đốc kết tội ông âm mưu dấy loạn nhưng do không tìm được bằng chứng nên chúng đành phải thả ông ra. Sau khi ông viên tịch, một số đệ tử âm thầm đưa ông về chôn tại cánh đồng tại xã Vĩnh Nguơn. Mộ của ông được khõa bằng như mộ Phật Thầy Tây An chứ không làm nấm nên hiện nay người ta không tìm được dấu vết.
Từ năm 1965 đến 1968, bom đạn pháo từ Châu Đốc làm cho chùa bị thiệt hại nặng nề, mái bị sập, tường đổ ngỗn ngang. Khoảng năm 1969, bà con bổn đạo mới dời chùa về núi Sam phía sau miếu Khổng Tử kế bên lăng ông Thoại Ngọc Hầu để thờ phụng. Trong chiến tranh biên giới phía Tây Nam, một lần nữa chùa Bồng Lai trở thành bình địa trước sự cướp phá của bọn giặc Pôn-Pốt tràn sang từ phía bên kia biên giới. Dân chúng phải chạy sang phía bên này bờ kinh để sinh sống, phía bên chùa giờ đây chỉ còn lại mấy ngôi nhà rãi rác phía xa xa.
Khi chiến tranh qua đi, chùa Bồng Lai được trùng tu lại để có nơi thờ phụng và giữ gìn di tích “Cây thẻ”. Lần trùng tu sau cùng là vào năm 1992, chùa được mở rộng thêm nhà khách ở phía sau để tiếp đón khách hành hương đến viếng nhân dịp lễ giỗ của ông Đạo Lập vào ngày 30 tháng 9 âm lịch. Lễ giỗ năm nay kỷ niệm 122 năm ngày mất của ông, chùa đã đón nhận gần 10.000 khách hành hương từ các nơi về dự. Trong đó, có những cụ ông, cụ bà ở ngưỡng tám, chín mươi tuổi quê tận các tỉnh xa như Cà Mau, Kiên Giang hàng năm vẫn theo con, cháu về đây dự lễ giỗ với lòng thành kính vô biên…
Vào ngày 27 tháng 10 năm 2006, Chùa Bồng Lai được công nhận là Di tích Lịch sử Cách mạng cấp tỉnh.
Loại bỏ những yếu tố về mê tín dị đoan ra, chúng ta nhận thấy rằng việc cắm cây thẻ tại chùa Bồng Lai không phải là phá thế “ếm” của bia Càn Long, mà chính là việc xác lập chủ quyền của tiền nhân khi đến khai phá vùng đất mới, một công cuộc lắm gian lao mà nhiều khi họ phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt và ngay cả bằng máu của chính mình. Nguyện vọng của họ là dành lại sự ấm no cho người đời sau…!
LÂM THANH QUANG