Quyển giảng viết về cuộc đời của Đức Cố Quản Trần Văn Thành, tác giả là ông Vương Thông - một môn đệ của ông Trần Văn Nhu (con trai trưởng của Đức Cố Quản)
*
Nam trào kế trị quốc gia,
Nhơn dân lạc nghiệp gần xa phục tùng.
Xét xem lục tỉnh Nam Trung,
Quan quân hiếm kẻ anh hùng trí tri.
Thời Trời vận khiến nước suy,
Phật cho Thầy xuống để ghi mấy lời.
Khiến nên thiên hạ đổi dời,
Nhơn dân đồ khổ trong thời thiết tha.
Kế năm Kỷ dậu Thầy ra,
Lúc đương dịch bắt người ta muôn ngàn.
Nhờ Thầy độ giải dân an,
Phật còn thương chúng sao quan bắt Thầy.
Gian nan luống chịu bấy chầy,
Nhờ Phật độ Thầy khiến bụng quan tha.
Thầy về chùa chánh ở mà,
Gần xa bổn đạo vào ra thăm Thầy.
Khi vui Thầy mới tỏ bày,
Để sau bổn đạo biết Thầy dở hay.
Nước Nam sau có giặc Tây,
Nhơn dân đồ khổ lời Thầy ghi cho.
Giàu nghèo chớ chắc đừng lo,
Chí tâm niệm Phật Trời cho thấy đời.
Hạ Nguơn nay đã biến dời,
Tây qua sửa dọn thay đời Đế vương.
Chư hầu bá quốc thông thương,
Mai sau gặp thấy Đế vương mới hòa.
Phật ra ngự chốn non tòa,
Mấy lời Thầy dạy ghi mà đừng quên.
Rồi đây biết lẽ hư nên,
Ai tin giữ đặng tâm bền thốt ra.
Kế năm Mậu ngũ Tây qua,
Đánh phá thành lũy nước nhà tang hoang.
Nam kỳ hiếm kẻ trung cang,
Ra mà cự dịch thát oan dân Trời.
Tây dương ỷ thế ỷ tài,
Tàu đồng súng sắt bắn hoài phải thua.
Kẻ lên trên núi cất chùa,
Người ra làm mộ đánh đùa chẳng dung.
Nước Nam hiếm kẻ anh hùng,
Nghề văn nghiệp võ trí trung kiệt hào.
Các quan lập trận đề đao,
Đánh dư tăm trận, trận nào cũng thua.
Dốc lòng trả nợ ngay vua,
Thời Trời vận khiến chịu thua lai hàng.
Tây dương thành lũy sửa sang,
Khai kinh đắp lộ chiêu an dân Trời.
Nam suy Tây đặng thạnh thời,
Tại lẽ ở đời kiến việc hư nên.
An Nam Khách trú Cao mên,
Làm xâu đóng thuế hư nên mặc tình.
Nghĩ xưa hồi thuở triều Minh,
Bắt cha chém đạo động tình nhơn dân.
Minh quân đại đức đại ân,
Cớ sao đày Phật cất phần coi chim.
Bây giờ nghỉ lại các điềm,
Tây qua lấy nước giận hiềm chi ai.
Điềm Trời ách nước mang tai,
Bá quan dân võ trong ngoài gian nan.
Nhơn dân đói rách cơ hàn,
Biết làm sao đặng cho toàn hiển vinh.
Bây giờ đến lúc gập ghình,
Giặc thời lấy nước lánh mình đi đâu.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . ..
Để cho Trời Phật định phân,
Làm tôi phải trả nghĩa nhân cho toàn.
Quán Ngài tại tổng An lương,
Trong làng Thạnh mỹ bốn phương phục tùng.
Khăng khăng hai chữ hiếu trung,
Tờ ra chiêu mộ anh hùng các nơi.
Ai ai cũng ở giữa Trời,
Nghe Ngài chiêu mộ vưng lời thảo ngay.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . .. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . .. . . . . . . .
Anh hùng xuất trận đề đao,
Ngay vua sống thác quản bao thân này.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. .
Sống thời làm tướng thác nay thành thần.
Lẽ Trời nay đã định phân,
Dầu chẳng thành thần, Phật rước về Tây.
Giặc vô bốn phía phủ vây,
Rập bô nó bắn gãy cây hư đồn.
Đội cai thất vía kinh hồn,
Đâm đầu mà chạy lũy đồn tan hoang.
Lao xao dân lộn với quan,
Kẻ chạy về làng người lội xuống sông.
Con kêu mẹ sợ quên bồng,
Tai nghe súng bắn vợ chồng bôn phi.
Trời xui Tây thạnh Nam suy,
Biết làm sao đặng phục qui Nam trào.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Bây giờ nhớ đến lời Thầy,
Nhứt nhơn cư hiểm nạn Tây nan tầm.
Khen trong nam nữ đồng tâm,
Làm lành đừng dữ họa thâm đến mình.
Ngài về chiếm cứ Láng Linh,
Ở mà ẩn sĩ một mình tu thân.
Thời Trời còn khiến nhơn dân,
Nghe Ngài về đó rần rần đến thăm.
Chịu bề khổ hạnh mấy năm,
Khai kinh mở ruộng nhất tâm tu hành.
Thân Ngài chẳng quản rách lành,
Ở trong Láng đó lều tranh chờ thời.
Người trung đứng giư mặt Trời,
Đắng cay bao quản vận thời chớ than.
Trích cò nghe ác la vang,
Đậu khoai nuôi bữa bắp rang đỡ lòng.
Vận còn Trời khiến long đong,
Thiên hạ đồng lòng tiếng dậy đồn linh.
Thấu tai về đến triều đình,
Chiếu vua sai khiến biểu mình cầm binh.
Như vầy trọn điệu trung trinh,
Ngưỡng vâng sắc chỉ chiêu binh cầm quyền.
Khuyên trong bá tánh chư viên,
Lòng trung đặng một màu thiền hòa hai.
Ngồi trong có lịnh qui tai,
Cớ sao chẳng có một ai trả lời.
Thình lình chúng sĩ bồi hồi,
Quân báo Tây nó tới lui cưa cầu.
Chư viên lớn nhỏ ứng hầu,
Ra mà cự địch trịnh hầu bắn tan.
Trẻ giá chồng vợ khóc than,
Đem nhau mà chạy tan hoang dân Trời.
Ngài còn ghi dạ mấy lời,
Phút tan một trận dởi dời trải qua.
Cậu còn dìu dắt lịnh bà,
Đem ra cho khỏi lánh mà lúc nguy.
Thiên cơ trần thế bất tri,
Khiến nên phụ tử chia ly rã rời.
Cậu Hai lời nguyện giữa Trời,
Thuận thời trở lại ẩn mà tu thân.
Phong trần ai cũng phong trần,
Nương theo phước mẹ thảo thân cho toàn.
Lịnh bà về cảnh Tây phang.
Cậu còn ở lại sửa sang chùa chiền.
Thung dung một tấm lòng thiền,
Cầu mẹ về đặng cảnh Tiên thanh nhàn.
Thường lệ măng mọc tre tàn,
Tiếng mình cũng gọi con quan đã rồi.
Láng Linh Cậu ở lần hồi,
Lập chùa cầu Phật dạy thôi lời lành.
Quản bao thân phận rách lành,
Lần hồi rẫy bái chữ nhành Thầy ghi.
Như vầy mới trọn đạo nghì,
Ngay vui thảo chúa kính vì Thánh Tiên.
Lời ghi sau có trường yên,
Đế đô tại núi Phật Tiên trị đời.
Chư châu chư quận khắp nơi,
Đều vào làm hội ngôi Trời chiêu dân.
Hội đồng thập bát quân thần,
Đều vâng lịnh Phật ân cần âu ca.
Thuận đời thiên hạ hiền hòa,
Nhà lành con thảo thật thà lòng ngay.
Bửu sơn bốn chữ tỏ bày,
Vốn của Phật Thầy ở tại Long Châu.
Thiện nam tín nữ đâu đâu,
Ai có báu ấy đem hầu vưng vua.
Bây giờ xin chớ hơn thua,
Thời lòng tưởng Phật tìm chùa tụng kinh.
Có lòng bức trần cũng linh,
Chẳng cần có cốt có hình làm chi.
Tánh Cậu một nết từ bi,
Bổn đạo nói gì chẳng thốt chẳng la.
Ghi lời hiếu nghĩa mẹ cha.
Lạy Trời cầu Phật vậy mà sớm khuya.
Nam mô Bồ tát chẳng lìa,
Nhứt tam niệm Phật xưa ghi định phần.
Cậu còn ở giữa phong trần,
Đắng cay bao quản nhọc thân chi nài.
Mặc dầu bữa bắp bữa khoai,
Bữa cơm bữa cháo nào ai biết lòng.
Canh tràng lụy ứa ròng ròng,
Nhớ lời Thầy dạy ghi lòng đợi trông.
Đêm khuya chong ngọn đèn hồng,
Ngồi mà tưởng Phật cầu lòng tỏ gương.
Ngày ra nhắm ngó đường mương,
Bao nhiêu nước chảy đoạn trường bấy nhiêu.
Lóng nghe gà đã gáy chiều,
Ngùi ngùi tưởng sự chín chiều ruột đau.
Thân cậu như cá trong sao,
Nằm co trong giếng khó khăn vậy mà.
Công lao tiêu tứ thiết tha,
Chí tâm mà đợi lịnh cha xưa truyền.
Luận bày tỏ sự bá niên,
Minh tâm đặt để lưu truyền hậu lai.