Ngồi buồn - Nguyễn Văn Thới
17/3/16
Ngồi buồn gẫm sự thế gian Cõi trần nhiều nỗi gian nan cốt hài
Nhứt tâm tưởng Phật lâu dài
Dầu ai hủy hoại ta hoài thiện tâm
Cuộc đời trời khiến cơ thâm
Niệm sao nhứt tánh nhứt tâm trọn niềm
Hữu công Trời Phật lại tìm
Nam mô nhớ Phật trọn niềm thủy chung.
Vẹn toàn hai chữ hiếu trung
Chữ tà chữ nịnh chữ hung làm gì
Thế gian ăn nói dị kỳ
Bất tùng Trời Phật bất tùy Thánh Tiên
Xem tường sự thế lòng riêng
Bất tri Thiên Địa phương viên cao dày
Cõi trung Trời Phật lưu đày
Chẳng lo chẳng sợ tội nầy đọa kia
Thiếu thời lỗ miệng nói lia
Trong lòng chẳng nhớ lời kia Phật hằng
Thương dân Trời Phật dạy rằng
Nghĩ đi xét lại không bằng lời dâng
Sao bằng chả phụng khô lân
Trà thơm rượu cúc của dâng mỹ miều
Ít ai nói dạ ngư tiều
Ngược xuôi thừa thiếu gẫm nhiều người ưa
Nhiều người đem giọng đẩy đưa
Lời nay bất dụng lời xưa bất hoài
Ỷ mình khôn quỉ sắc tài
Địa ngục rủ loạn nằm dài thở than
Thiểu nhơn nghĩa khí trung cang
Những người hung dữ tham gian thiếu gì
Người chê lời Phật nói kỳ
Phật trời còn quấy huống gì là tôi
Bó tre chẳng giữ bỏ trôi
Phật ngồi dương thế thương ôi dân hoành
Chẳng ai noi việc làm lành
Mê chi trần tục bỏ đành tây phương
Trung thần phản chí Trụ vương
Qui lai Tây bá nhà Thương mạt rồi
Linh đinh sóng dập gió dồi
Thương non nhớ biển đứng ngồi không an
Phật mang tám nạn dương gian
Người ba tai họa chẳng han trong mình
Đứt cương ngựa chạy thình lình
Gà con vỡ ổ giựt mình chắt chiu
Noi đời Thuấn nhựt thiên Nghiêu
Cõi trần hung bạo xử tiêu xác hồn
Sự vong như thể sự tồn
Để mười hai tháng tế hồn ma vong
Bàn linh ngày tháng vắng không
Bốn mùa tám tiết chẳng công ngó ngàng
Ví như thương khách qua đàng
Đến ngày tính cúng kêu giường thờ thân
Cải tà qui chánh khó phân
Phật trời thương dạy nhơn dân bất tùng
Lời ngay sao kẻ chẳng dùng
Lời tà ác ý khúc tùng nhứt tâm
Ít người mưu trí kế thâm
Trung quân ái quốc nhứt tâm thuận hòa.
Tôn sư giáo chánh phế tà
Nay tôi rõ thế bất hòa vong ngôn
Xem trong thế giái càn khôn
Tam tài tứ thánh nhứt môn lập đời
Mặc ai lòng dạ đổi dời
Làm sao mé biển chưn trời xa nhau
Nhựt viên nguyệt khuyết bấy lâu
Anh hùng thất vận ngồi câu công hầu
Đố ai lập đặng Nam-lầu
Giỏi chi phàm tục không cầu Thánh tiên
Chữ rằng thiên lý vị nhiên
Sơ nhi bất hậu võng thiên bủa vòng
Phật ma niệm nghĩ trong lòng
Ngày sau chi khỏi vợ chồng phân ly.
Tu tình mặc chốn khinh khi
Tu tài tu sắc thế nghi thuận tùng
Xứ xứ tất hữu anh hùng
Chữ tài chữ sắc khó dùng chữ ân
Lập thân hành đạo lập thân
Dương danh hậu thế trung phân chánh tà
Nam-mô tảo ngộ Di-Đà
Biết sao Phật ái việc tà chúng sanh
Hỡi còn khôn quỉ đua tranh
Đua tranh khôn quỉ dục thanh bất tường
Nam mô dạ bảo tâm cường
Mấy mô cũng lở ra đường dất chay
Bao giờ kiến Phật Như-Lai
Thời dân hãn hữu họa tai tới mình
Phiên-bang nhiều việc bất bình
Sưu cao thuế nặng khổ tình dân ôi
Bao giở cho gặp chúa tôi
Cho tôi thấy chúa trời ôi phật trời.
Thế gian ăn nói nhiều lời
Khi tiên khi phật khi trời khi quân
Từ khi mắc quả trầm luân
Tội người trăm tội từ chưn chí đầu
Nói ra dạ thảm lòng sầu
Thân sao để tội từ đầu chí chưn
Hai thân hiệp lại một lưng
Hai vai chẳng gánh sự quân trung thần
Gia bần chí đoản chơn bần
Bần tiên bần thánh bần thần mới ngoan
Bần đừng tích cực tham gian
Bần trung bần hiếu bần mang quả tiền
Gia bần mạng lý chớ phiền
Bần nhơn bần đức bần hiền mới ngoan.
Đừng ham nhà dọc dãy ngang
A tùng sự ác sau mang tội nhiều
Sông sâu ngựa lội ngập kiều
Con hư cha mẹ bỏ liều con hư
Đừng nói dạ cẩu lòng trư
Mua tôm bán cá nói dư thỏng thừa
Thú tu lòng Phật còn vừa
Huống chi nhơn thế thiếu thừa không tu
Làm sao nguyệt chói trăng thu
Rừng già hiếm kẻ ngồi tu thạch bàn
Tu sao trốn chúa trốn làng
Tu nhơn tu nghĩa giữa đàng mới hay
Đừng chê tu mặn khen chay
Thượng thanh hạ trước dở hay tại lòng
Tu sao không vợ không chồng
Không con không cháu tuyệt dòng quốc gia
Tu tà tu quĩ tu ma
Lòng nào tu chánh Diêm la tương phò.
Ham chi đồng bạc con cò
Bạc hình bạc giấy lần dò đi xa
Tị trần lộn xuống Diêm la
Địa ngục vấn tội khảo tra đêm ngày
Gian nan luống chịu bấy chầy
Nhờ ơn trời phật độ rày chúa tôi
Đừng lòng giết óc hầm vôi
Làm người cho biết chúa tôi mới rằng
Gái trai giữ vẹn đạo hằng
Vàng thoi bạc nén chẳng bằng nghĩa nhân
Làm sao cho khỏi căn dân
Vua quan chẳng xét sự nhân cơ hàn
Có phước làm đặng tiên hoàng
Có phần làm đặng tổng làng hiển vang
Đừng làm tích ác tham gian
Thời người mới đặng hiển vang thọ trường
Dĩ oai phế đức cang cường
Ngày sau mắc chốn chiến trường đao binh
Hành hình sự thế bất minh
Tông môn tổ đức bất minh linh hồn
Ít ai cầu sự vong tồn
Cầu trời vái phật vong hồn siêu thăng
Lo làm nhiều việc lăng xăng
Chẳng lo nhân nghĩa qui căn Phật trời
Gió đưa thủy liễu đổi dời
Nào ai cãi Phật cải trời thuận tâm
Trào đình mưu trí kỳ thâm
Thiên cơ một lúc loạn xâm tơi bời
Ở sau chẳng tưởng Phật trời
Một vai mười trả nợ đời không lo
Thác rồi hồn xác ra tro
Chẳng làm chi tốt không lo làm lành
Huệ thơm trời Phật để dành
Cõi trần ai tích sự lành phật cho
Khó lo những việc đói no
Thiên cơ họa phước biết lo sao toàn
Đi đâu cho khổ nhiều đàng
Kìa non Bửu tự nọ ngàn Ma ha
Cảnh nào cảnh chẳng có hoa
Non nào non chẳng có tòa thiên thai.
Lẽ nào trước chẳng hiệp mai
Lẽ nào gái chẳng hiệp trai trinh tường
Riêng than quê thị phố phường
Ở sao chẳng biết nẽo đường ma ha
Làm sao khỏi xuống Diêm la
Muốn tìm thấy Phật Thích Ca làm lành
Chim khôn lèo luống trên nhành
Hưởng huê nếm mật công thành danh vinh
Đừng nghe ngũ truyện sử kinh
Ngũ mà ngủ mất tà tinh lộn vào
Bởi nghe ngạn ngữ lời tàu
Nam bang vong phật ma vào làm gương
Đăng trà quả thực chưn hương
Không lòng mắc chữ oan ươn g cửu trường.
Gió đưa phưởng phất huê hường
Huê sen chậm trổ nan tường tây phương
Phật trời nỡ hại hiền lương
Nỡ chôn hào kiệt oan ương vận thời
Phép nào hơn Phật hơn trời
Làm tôi giữ đạo nghe lời Tôn sư
Bắc cầu thiếu ván sông dư
Đau lòng tưởng Phật nhớ sư sự tồn
Để coi ai giỏi tiếng đồn
Thân tôi như rác tấp cồn sóng xao
Biết nghe lời nói thấp cao
Vận nghèo tiểu khẩu biết sao mở lời
Nên hư chứng có Phật trời
Thương non nhớ biển đổi dời thủy lưu
Xa cầu biết sự tâm ưu
Thiểu tài thiểu trí thiếu mưu dưới đời
Bại, thành, thành, bại tại thời
Việc sao nay đổi mai dời thiện đoan.
Đạo nào bằng đạo tam cang
Ngũ thường giáo thế hung hoang hư minh
Cầu cao ván yếu gập ghình
Bước qua bước lại dụng tình sửa sang
Một lo sự thế chưa an
Hai lo lúc hiệp lúc tan đổi dời
Thầy ôi trở lại độ đời
Hạ-ngươn ăn nói nhiều lời đắng cay
Tài chi người lại xưng hay
Phép nào chẳng có múa tay nói ngầy
Vong ngôn phản đạo phụ Thầy
Nắm tro Phật bỏ chổ ngầy phải tiêu
Cuộc đời chẵng khỏi hảo thiêu
Trùng trùng lửa dậy quần yêu tan tành
Thây trôi mé biển đầu gành
Hùm tha sấu bắt làm lành khỏi tai
Mặc tình già trẻ gái trai
Phật trời nào có ép ai mà phiền
Hiếu trung xa cách lương tiền
Biết làm sao đặng xỏ liền một dây
Nên rừng há dễ một cây
Muốn cho có đó cùng đây hiệp hòa
Sâm soi ý lý đạo nhà
Đường đi viển vọng hương trà trải qua
Tiêu tà tiêu quỉ tiêu ma
Tiêu tham tiêu thú người ta thì còn
Càng ngày càng thác càng mòn
Xem đi xét lại chẳng còn bao nhiêu
Chừng nào Phật khiến đảo điên
Hoàng thiên lượng định thân siêu thì nhờ
Làm con phải chịu dại khờ
Thân nay như thể nước cờ bị vây
Lưới mê trời phật giăng ngay
Làm sao cho khỏi bỏ thây mới mầu
Chẳng ai vác ván thêm cầu
Lóng nghe trống điễm trên lầu sang ba
Phật trời lộn lạo quỉ ma
Âm-dương tương tội Diêm la hiện trần
Đao binh khởi loạn rần rần
Quan quân phú quí cơ bần như nhau
Bây giờ người chẳng thấy đâu
Chừng nào ngó thấy lo âu sao rồi
Bôn chôn khó đứng khó ngồi
Ra đi chẳng tiện khổ rồi ở ăn
Miễu đình am tự sải tăng
Bất tùng sư giáo vô căn điêu tàn
Cốt đồng cốt gỗ cốt vàng
Cốt chì cốt bạc tội ngàn nhơn sanh
Họa hình tiếc thể tượng tranh
Bán cho Lục tỉnh bia danh hành hình
Trách ai ăn ở lọng (lộng) tình
Hà nhơn sanh Phật hành hình chung thân
Trách ai vô lượng vô phân
Trung thần dối thế giáo dân lấy tiền
Tu đâu tu bạc tu tiền
Tu hung tu dữ tu hiền vốn không
Tu nào tham của tham công
Tiền ma gạo quỉ nó không ở đời
Tu đâu chẳng biết phật trời
Nằm đêm tính việc lỗ lời hơn thua
Theo người thành thị tranh đua
Ngọn rau tấc đất ơn vua không đền
Làm trai chí cả cho bền
Trung quân ái quốc cận nền Phật vương
Đừng lòng lỡ ghét lỡ thương
Lở trung lở nịnh oan ương hại mình
Cá không ăn muối cá sình
Người không trung hiếu bất bình tâm can
Nửa ngay lòng ở nửa gian
Chẳng suy chẳng nghĩ đa mang trí cuồng.
Ở đây dạ khiến thua buồn
Xuân qua hè lại luôn tuồng gian ngay
Chim đậu không bắt nó bay
Tài chi ra sức theo đây vầy đoàn
Thầy xưa nổi giận la làng
Không ai ứng tiếp vầy đoàn tây phương
Cá không ăn muối cá ương
Con không nghe mẹ vi lương hư rồi
Gánh thơm để xuống bèn ngồi
Xem sau ngó trước nhớ hồi thơm ngon
Nhớ hồi mẹ lại dạy con
Trái nào nở mắt mật son già lòng
Ở sao như bưởi với bồng (bòng)
Ngọt chua một dạ một lòng mới nên
Mấy lời mẹ dạy đừng quên
Dầu mà sống thác hư nên để lòng
Ngày sau may đặng lên vồng
Cãi lời mẹ dạy trái lòng con hư
Lửa vùi nóng nảy lòng lư
Gánh thơm bán ế tính chư sự nào
Chẳng mua mắng nhiếc hổn hào
Hàng tôm hàng cá ra vào quen thân
Trái thơm trăm mắt bớ dân
Người phàm hai mắt khó phân việc nầy
Gian nan sau tớ trước thầy
Đố ai rõ đặng việc nầy mới ngoan
Tiểu khê còn sợ đại giang
Bắt cầu trăm nhịp cầu an thuận hòa.
Lên non cám cảnh rừng già
Làm con làm cháu tưởng bà tưởng ông
Tu trần như buổi chợ đông
Chiều tan mai hiệp nghỉ không thường hành
Việc nào thua việc làm lành
Tu nhơn tích đức để dành ngày sau
Khó thời bắt ốc hái rau
Xá gia cầu đạo ngày sau hưởng phần
Xá ác xá phú xá bần
Xá bá sự quấy cõi trần mới nên
Tây phương dầu chẳng đặng lên
Diêm đình dầu xuống chớ quên lời thầy
Người tu trời Phật bắt đày
Có đâu ỷ sức vui vầy chưng cơ
Chẳng rằng quí tại hồ sơ
Dầu sau rõ sự thiên cơ bắt cầu
Lòng người sớm đánh tối đầu
Phật trời dạ thảm lòng sầu héo von
Phật cho bốn chữ ngoài son
Trong lòng thiệt giấy nước non vuông tròn.
Thầy ghi đạo Phật hao mòn
Sơn băng thủy kiệt dạ còn nhớ ghi
Quên lời là lẻ mình khi
Phật trời chí sứ từ bi phải phiền
Ở sau mười việc chẳng hiền
Làm sao trời phật không phiền lòng dân
Có thân người phải xét thân
Việc nào tà chánh lượng phân dữ hiền
E sau hóa hải tang điền
Tích tồn phước đức chữ hiền lương trương
Bạc vàng dầu để mấy rương
Lòng không đặng chữ hiền lương chẳng còn
Tỷ như phố ngói Sàigòn
Lâm cơn nguy biến biết còn hay không
Sang giàu như buổi chợ đông
Thác rồi cũng nắm tay không mà đời
Dữ lành hai việc để dời
Thác đem theo giỏi phật trời xử phân
Có thân thời khổ với thân
Thân ơi thân biết lượng phân giử lành
Phật trời dạy bảo tu hành
Nhứt tâm thiện niệm chẳng thành cũng ưng.
Phải lo gở tội trầm luân
Dầu mà chẳng khỏi cũng ưng thân trần
Bất kỳ đạo tặc phú bần
Nhơn nhơn các hữu ký phần phật phân
Phật trời nhắc trái cầm cân
Hai đường tội phước định phân dương trần
Nói ra có thánh có thần
Hai vai biên chép lời trần hiền hung
Ngay gian quấy phải nịnh trung
Phật trời soi thế hiền hung tỏ tường
Tranh đua theo việc phố phường
Có đâu biết việc chiến trường chông gai
Xét lòng già trẻ gái trai
Một năm chẳng nhắc Phật lai một lời
Lại thêm mắng gió chưởi trời
Ghét mưa giận nắng ở đời làm sao
Kêu trời kêu phật lao xao
Phật còn thiếu nợ xiết bao tội người
Nói ra nhiều lẽ tức cười
Hai vừng nước mắt thương người bất tri
Hẹp hòi khó bước dể đi
Bưng khuân nhớ Phật cung ly dấu đoài
Giỏi chi dụ vản thơ bài
Công danh phú quí vẹn tài tân quan
Nước đục phèn lóng đục tan
Sút chùi cặn cáo mới an tâm thần
Nước trong ngó mặt thấy gần
Xem sao điểm nguyệt cỏi trần lưng vơi
Sanh giàu thông (thong) thả ăn chơi
Ngủ trưa ngủ sớm an nơi cõi trần
Bất ưu vinh nhục quân thần
Bất ưu lao khổ cỏi trần tân toan
Nước lộn bực lở An giang
Châu đốc tỉnh hạt tân quan đặt rày
Mán trâu ví thá cầm cày
Đáy sông mặt biển chủ thầy ghi sau
Người giận ỷ trí đánh trâu
Đánh rồi lại nghĩ dạ đau dại khờ
Lung lăng lấn lướt nước cờ
Ngựa ba pháo bảy vật vờ chích xe
Chẳng ai vun bén bụi tre
Lại thêm năm chốt chẳng nghe lướt vào.
Tượng sỉ đi mất hồi nào
Một mình tướng quốc ra vào trống trơn.
Ngó lên cấm điện Thất sơn
Ngùi ngùi nhớ Phật từ cơn hiểm nghèo
Gian nan xuống dốc lên đèo
Người khôn mắc chốn hiểm nghèo hết khôn
Quyết lòng ra ngoại càn khôn
Người hiền bao nỡ Phật chôn trí tài
Biết ai đặt đặng thơ bài
Đậu câu trúng vận nói dài nghe chơi
Người hiền khó nỗi thảnh thơi
Anh hùng thất vận nhiều nơi phụ phàng
Ở đâu khỏi xóm làng
Trốn trời sao khỏi nắng hàn sương vương
Đền đài Bắc chúa nương Thương
Chữ rằng nhứt nhựt vô vương đảo quyền
Gia Long Thiệu Trị xuất tiền
Minh Mạng Tự Đức thảm phiền Tây qua.
Nhà thờ bái thánh có cha
Chào nhưn chúng tử vào ra lễ mừng
Phật ta thương nhớ cảnh rừng
Am vân Quỉ cốc theo vừng núi non
Thị thiền ý Phật thon don
Phàm trần lỗi đạo làm con Phật trời
Bán buôn một vốn mười lời
Lợi đa đa hại thương đời tham lam
Chữ rằng thất hiếu hữu tam
Ngũ hình phạm tội lòng tham loạn đời
Linh đinh huyền bá giữa vời
Buồm đà gặp gió xuôi thời thả xuôi
Nước mắt còn dựa mắt đui
Buồm đà gặp gió thả xuôi một bề
Thân tôi như thể thằng hề
Gió day mấy hướng mấy bề cũng theo.
Nực cười tấm đá cheo leo
Con khỉ người nói con heo khó bàn
Đánh đau chẳng dám la làng
Dân như gỗ mục lót đàng người đi
Đối đáp là lý sân si
Người hiền nhẫn nhẫn từ bi mới hiền
Anh em bao nỡ trách phiền
Bởi chưng ăn nói chẳng hiền ghét nhau
Sào vắn khó chống sông sâu
Ở ăn việc trước như sau chớ sỡn (sờn)
Nói ra kẻ giận người hờn
Lòng tôi ở thẳng như đờn lên dây
. . . . . . . . . . . .
Tre tàu măng mọc gốc cây đâm chồi
. . . . . . . . . . . .
Dương gian âm phủ lành rồi mới ngoan
. . . . . . . . . . . .
Việc nào khổ khổ kêu vang phật trời
. . . . . . . . . . . .
Kể từ chưn tóc chỉ đời kẻ răng
. . . . . . . . . . . .
Thường hành bình đẳng nhỉ văn nhập tình
. . . . . . . . . . . .
Trung tâm xuất khẩu bất bình bất văn
. . . . . . . . . . . .
Phật tâm tâm phật căn độ mình
. . . . . . . . . . . .
Bội quân Nguyệt kiểu tức mình đi tu
. . . . . . . . . . . .
Trào nào người có công tu thời thành
. . . . . . . . . . . .
Tu sao bằng bạc bằng tiền thung dung
. . . . . . . . . . . .
Nhớ nguyên từ trước Tiên cung tị trần
. . . . . . . . . . . .
Nương theo đức phật tị trần mới vui
. . . . . . . . . . . .
Ngặt nghèo hai mắt mù đuôi thấy gì
. . . . . . . . . . . .
Vàng rơi khó kiếm ngọc lỳ dể lau
. . . . . . . . . . . .
Răng nào cắn lưởi dấu sao răng người
. . . . . . . . . . . . .
Lòng sầu khô héo chín mười năm dư
. . . . . . . . . . . . .
Bất cung bất nể bất tư Hớn trào
. . . . . . . . . . . . .
Bửu sơn đã tới chỗ nào Kỳ Hương
. . . . . . . . . . . . .
Sông mê bể khổ nhà thương phong thần
. . . . . . . . . . . . .
Nói lui nói tới cõi trần lao đao
. . . . . . . . . . . . .
Biết là chắc sống đặng sao hởi người
. . . . . . . . . . . . .
Ham ăn ham nói ham cười lao xao
. . . . . . . . . . . . .
Rủi tay té nặng khổ lao cốt hài
. . . . . . . . . . . . .
Hai đường tội phước sách ngoài khảo tra
. . . . . . . . . . . . .
Nhiều người đi xuống Diêm la đọa hình
. . . . . . . . . . . . .
Anh em đừng có ỷ mình dọc ngang
. . . . . . . . . . . . .
Nuớc ai mấy trị đời an thái bình
. . . . . . . . . . . . .
Nhà ai nấy chọn dỉ tình tương liên
. . . . . . . . . . . . .
Bồng lai sơn thủy cảnh tiên chỗ nào
. . . . . . . . . . . . .
Quỉ trần trước mặt hổn hào chỉnh khôn
. . . . . . . . . . . . .
Ai từng dại nói với khôn sao bằng
. . . . . . . . . . . . .
Tam cang thường ngũ đạo hằng mới yên
Niệm phật có thánh có tiên
Có bình chư vị độ yên tâm bình
Niệm Phật cải dữ trong mình
Cải tà qui chánh nghiệm tình lượng phân
Niệm phật tích thiện vi ân
Chữ tài vi oán lòng dân chẳng lành
Ai ai nhẫn chí để dành
Hạ nguơn tận thế tu hành cần năng
Chữ rằng lạc diệp qui căn
Trào nào cũng dụng nho văn làm đầu
Hữu quân tất hữu công hầu
Vô quân thị tất nan cầu công khanh
Ai mà chẳng dụng công danh
Làm người lánh đục tìm thanh mới mầu
Tây phương bất dục nhơn cầu
Lòng ai dĩ đạo kết sầu tây phương
Đa nhơn chí tại bất lương
Phật trời nào chẳng lòng thương dân lành
Đời nầy nhiều kẻ tu hành
Tu là tu quỉ tu lành vốn không
Cửa trời mở rộng minh mông
Việc nào tà chánh xét trong lòng mình
Bất dụng tài sắc dạng hình
Dụng tâm dụng tánh dụng tình hiền lương
Dụng người ưu đạo quốc vương
Dụng người hiếu nghĩa trung lương đá vàng
Non cao thú dữ muôn ngàn
Nghiêng vai gánh đạo tầm đàng tây phương
Sợ đàng lưới nhện vấn vương
Dốc lòng giử đạo tầm phương non bồng
Sơn khê đá dựng chập chồng
Còn lo một nổi khó lòng nẽo đi.
Chim kêu vượn hú tử quy
Thác còn sống mất đường đi sõi sành
Vượn kia bao nỡ lìa nhành
Chim kia bao nỡ bỏ đành rừng non
Ai từng mẹ chẳng thương con
Lá lai (lay) vì bởi thẹn non khác lòng
Đeo cho cổ chuỗi tay vòng
Nam mô không biết trong lòng một câu.
Chẳng lo đào giếng cho sâu
Của mình nó lại lo âu hại mình
Hường nhan chi kẻ vô tình
Phật không dụng sự sắc hình dân ôi
Chợ lớn bao thuở hết vôi
Làm người không chúa làm tôi sao hằng
Chúa ôi sao chúa không rằng
Để cho các nước lăn quằn hại dân
Phật ôi sao Phật chưa phân
Trời ôi bao nỡ để dân điêu tàn
Dân ôi chẳng sợ cơ hàn
Hiển vinh chi đó chen đàng đua tranh
Lươn kia còn nhớt còn tanh
Tanh chi có mở cũng danh béo bùi
Nói ra trong dạ sụt sùi
Thân nầy chi khác trái mùi trên cây
May mà trôi nổi đến đây
Việc xưa chi khác việc nay chút nào
Quán trung ít kẻ ra vào
Tai nghe phường phố như Tào hưng binh
Ngồi buồn trách chúa Bắc kinh
Làm cho lổi đạo bất minh hại đời
Đa đoan ngôn ngữ loạn lời
Ai ai đều cũng dân trời tôi vua
Một nước nghịch nhỉ tranh đua
Làm sao cho phải tôi vua dân trời
Con ai mà chẳng nghe lời
Mẹ cha dại bão cải lời ngoan ngôn
E sau thây thác không chôn
Chớ đừng ỷ sức ngoan ngôn cãi trời
Cho vay một vốn mười lời
Tính hơn tính thiếu buông lời chưởi ngang
Một chưởi hai chưởi một nan
Ba chưởi bốn chưởi thời hoang cửa nhà
Phật dạy từ trẻ tới già
Tội chưởi thậm tội kết mà đầu dây.
Nói cùng huynh đệ người hay
Chưởi thời chưởi thú tội nay vô cùng
Phép phật việc chưởi không dùng
Việc hung chẳng dụng thiệt dùng hiền lương
Nói ra nhiều kẻ chẳng thương
Việc nào thua việc vi lương để đời
Ai giỏi qua Phật qua Trời
Hoặc chơn hoặc giả đổi dời tại nhân
Phật trời nào chẳng lượng phân
Nhơn hữu thiện nguyện tùng dân thiện tình
Ác giả sanh sự bất bình
Phật trời ngài cũng cho mình cãi đâu.
Tự giả ý giả lo âu
Phật trời ngài chẳng cái đâu lòng người
Hoặc chơi hoặc khóc hoặc cười
Phật nào cản trở mà người oán thiên
Tự ý thiện ác điểm khuyên
Đừng lòng trách thánh phiên tiên lổi lầm
Cá qua sông trước cá nằm
Sông sâu cá lội ai cầm cá đâu
Mặc tình lội cạn lội sâu
Lội lui lội tới chậm mau ai gàn
Chim bay biệt sở xa ngàn
Rừng không trở lại ai màng chim đâu
Giác đời mới biết cạn sâu
Bằng không có giác sừng âu mọc đầu
Lóng nghe Bắc-ngụy Nam-lầu
Cỡi con bạch mã qua cầu Tây-phương
Dại nào mà dại chẳng thương
Khôn nào khôn chẳng khai mương bắt cầu
Đất dơ nên đất mới sầu
Trời dơ trời chẳng thèm cầu chúng sanh
Phật trời mắc đọa hôi tanh
Người phàm như thể tượng tranh vẻ vời
Nói thiệt khổ với đời
Khổ thời chịu khổ lổi lời phải cam.
Nôm na chữ nghĩa lam nham
Dầu người chê dại cũng cam thửa lòng
Nói ra lời phải dự phòng
Nói rằng cũng sợ mích lòng anh em
Vện vằn ai lại ngó xem
Thẹn thùa với chị với em xóm riềng (giềng)
Một quan thương kẻ năm tiền
Muốn cho lòng đó đừng phiền lòng đây
Người hiền ở thẳng nói ngay
Hiền không ngay thẳng sợ nay họa hồi
Chiếu bông gối dựa khó ngồi
Người tu phạm tội nhớ lời thầy ghi
Đại hùng đại lực đại bi
Làm người cho biết thủy nguy khuôn phò
Vô ơn mấy kẻ đưa đò
Cắc xu thu hoạch không dò nguy bang.
Vương thông hưng-thới An giang
Làm người biết đạo nguy bang ưu sầu
Lão suy hà lão bất cầu
Chỗ nào không Phật không sầu tây phương
Đạo hà hà đạo bất lương
Bất lương bất đạo bất dương bất tùng
Vỉ nhơn nhơn vỉ anh hùng
Bất tri thức lực chớ dùng làm chi
Đá hay sức đá một khi
Tuổi vàng vàng thức vàng tri tuổi vàng
Thương thân thì phải tùng làng
Sưu đinh thuế đóng vẹn toàn đừng sai
Mặc tình già trẻ gái trai
Lòng ta ta biết dạ ai ai tường
Mãng nghe sự thế phi thường
Ngó chừng trời tối dặm đường chẳng xa
Thầy ghi hữu phật hữu ma
Hữu tà hữu chánh nghĩ ra ngán ngầm
Nịnh trung hữu chí mưu thầm
Thiên cơ xử lý nan tầm phước thân
Có lòng cầu phật hồi ân
Phật trời nhỏ phước độ thân trải dời
Khác nhau có một chử thời
Dể ai bẻ mạng chống trời đặng cho
Giàu nghèo chưa chắc đừng lo
Nhất tâm niệm phật phật cho thịnh thời
Công danh rạng tiết chói ngời
Đừng lòng chê phật khi trời chẳng nên
Làm người cho biết dưới trên
Cây nào dưới đất mọc lên nên rừng
Giấc ngủ xảy thức ngó chừng
Ngủ mê đàng điếm cổi quần không hay.
Gẫm đường sanh tử xưa nay
Đờn cầm ai nỡ dứt dây nửa chừng
Chẳng ai đem dạ ớt gừng
Biết sao tội phước nói chừng mà nghe
Thân nầy như thể bè tre
Thả trôi theo nước lóng nghe cuộc đời
Cắn răng ép lưỡi ra lời
Hở môi chẳng dễ cuộc đời thịnh suy
Thiên cơ trần thế bất tri
Vận còn điên đảo thịnh suy đổi đời
Lòng nguyện cho thấu Phật Trời
Cho lòng tri thức diệt đời cổ kim
Án đời loạn chí bất nghiêm
Quân thần phi lý cổ kim bất tùng
Đời nầy lời nói không cùng
Thấy đâu nói đó khó dùng lời ta
Cải tà tà phải dang ra
Qui chánh chánh lại độ ta vẹn toàn.
Mấy năm luống chịu cơ hàn
Cam tâm khổ não điếm đàng chê quê
Thầy chê đổ bát đấu kê
Ham vui chịu lận người quê điếm đàng
Giựt của không mỏ không làn
Kết thù kết oán bất thuần đệ huynh
Thiệt đời ăn ở bất minh
Lời Thầy răn dạy khương minh bất tùng
Tiếng đồn lục tỉnh tôi khùng
Trượng phu chí cả thương cùng ngu si
Đường ngay ai chẳng cho đi
Mặc tình chúng bạn khứ qui tại lòng
Đường vạy khéo dắt đi vòng
Tây phương Phật dụng cái lòng tính minh.
Nam kỳ từ giả Bắc kinh
Trai ngay thờ chúa gái trinh thờ chồng
Thế suy cầu Phật hội đồng
Trung cang nghỉa khí giử lòng tự nhiên
Chữ rằng hiếu chí ưu thiên
Hiếu chung thân hiếu thị nhiên nên người
Thế suy dạ chẳng muốn cười
Bạc bảy sánh với vàng mười dể chi
Người hiền chịu chử ngu si
Vàng thau lộn lạo dể chi ra bề
Chữ rằng nội ngoại tương tề
Hai vai gánh nặng nén bề gái trai
Nghĩ mình nào dám ép ai
Làm người chi khỏi ba tai mà phiền
Trăm năm khó giữ mộ tiền
Chẳng cầu hồn vía sa miền Diêm-vương.
Ngục hình lao khổ đau thương
Sa về địa ngục tử lương nguyện cầu
Vái van một bái khấu đầu
Nguyện thiên nguyện địa vọng cầu tây phương
Cầu phật thấu đến Viêm-Vương
Chẳng cầu thủ mộ thịt xương điêu tàn
Vong linh sa chốn rạc ràng
Nhứt tâm khẩu nguyện ngoại càn khôn tri
Chí hiếu nguyện thấu cung ly
Phật trời ngài cũng động tri thức lòng
Lời giác phật nói bao đồng
Anh em nghe chớ trách lòng lời ngay
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Thương người người chớ thương đây chút nào
Nguyện cùng Bắc-đẩu Nam-tào
Xét soi số mạng lỗi nào đọa đây
Ngồi buồn thương gió nhớ mây
Nhớ đời Nghiêu Thuấn ra tay cày bừa.
Nói ra như nói thiếu thừa
Phật trời còn ở không vừa lòng dân
Dạy là dạy thế dạy phân
Thương là thương việc hương lân ngày rày
Sao sao chẳng kíp cũng chầy
Tớ sanh dạ dại cải thầy sao nên
Lời nào chánh lý đừng quên
Lời nào tà nịnh chẳng nên đừng dùng
Xứ xứ tất hữu anh hùng
Cao nhơn cao trị điên khùng trị ai
Lời nói có mắt có gai
Có đắng có ngọt nào ai biết lòng
Việc chua việc chát bao đồng
Để tiêu để ớt trong lòng làm chi
Nam mô hai chữ từ bi
Phật còn thương chúng lời khi dễ gì
Xét xem các cỏi biên thùy
Tài chi răn thế giỏi gì khinh khi
Nhĩ văn khẫu tụng tâm tri
Đừng đừng nghe tiếng thị phi mà lầm
Xa xuôi công nặng khó tầm
Tại gia vọng phật lỗi lầm tại tâm
Ở gần sớm viếng tối thăm
Ở xa ước mấy trăm năm cũng tìm
Ơn cao nghỉa rộng trọn niềm
Có lòng trời Phật lại tìm chúng sanh.
Bất tường ẩn tích mai danh
Dầu ai đặng chử công danh thời nhờ
Nam mô thiểu rí dại khờ
Gió nam sống bắc vật vờ hồn ma
Thương thầy nghỉ lại phận ta
Chừng nào Đại-Thánh ngài ra cõi trần
Vu oan vấy họa rần rần
Súng tây người bắn nhiều lần chỉnh (chỉn) ghê
Chẳng tìm dấu thỏ đàng dê
Sách đèn thức tánh canh kê gáy đầu
Ngựa hoang chạy vỡ qua cầu
Khỉ ngồi-rừng vắng lắc đầu nhăn răng
Mỏng môi hả miệng nói xăng
Láo nầy có cội có căn láo dòng
Thương nhau lời nói để lòng
Dầu ai mua bưởi bán bồng (bòng) mặc ai
Như lời mời gọi làm trai
Kiến nguy chí mạng ít ai học đòi
Nước trong cá lội hẹp hòi
Nước đụt (đục) ít kẻ học đòi bực sông
Cá đua đáy biển minh mông
Cầm câu ngồi ẩn bực sông trông thời
Thanh tân chi bấy bớ đời
Nam thanh nữ tú nhiều lời ngoan nan
Nực cười chước mọn châu lang
Sá chi bầy chấu cả gan đoạt quyền
Tranh ngôi hao tốn lương tiền
Làm cho bá tánh đảo quyền chẵng an
Câm hờn quân tướng quới quan
Chẳng thương dân chúng gian nan thuở nầy
Dân ôi dân chẳng nghe thầy
Vua ôi vua chẳng nhớ ngày Tây phương.
Tranh tài đoạt quốc thâm cương
Gây thù kết oán bất lương hại đời
Chẳng ai tin tưởng phật trời
Dọc ngang ỷ thế ỷ thời bề trên
Lời nói túc tiểu chẳng nên
Nói thanh chứng có hai bên biên lời
Ăn theo thuở ở theo thời
Loạn ngôn loạn ở loạn lời chẳng nên
Dặn lòng cho chắc đừng quên
Dầu mà sống thác hư nên tại trời
Hở răng chắc lưởi than đời
Làm sao đủ mặt coi đời thượng kim
Phật trời một kiển thanh nghiêm
Đời này chẳng khỏi phi lim tan tành
Chim khôn thì kiếm cây lành
Người hiền tìm chốn tu hành nương thân
Trách ai bụng lượng vô phân
Để theo tranh tụng dành phần thịt kia
Vàng lá bia ốc bắn bia
Người khôn ai có nói lia nhiều lời
Non cao vội vọi giữa trời
Làm sao trung hiếu hai lời hiệp thân
Nghề nào cũng phải lo phân
Không phân sao biết sự thân vẹn nghề
Gối rơm ai lại dựa kề
Quán trung vắng khách chuyên nghề sử kinh
Ghét là ghét kẻ bất minh
Thương là thương kẻ trung trinh vẹn toàn
Ghét là ghét kẻ điếm đàng
Thương là thương kẻ cơ hàng hiếu Trung
Ghét là ghét kẻ ngang hung
Thương là thương kẻ trí trung ở đời
Ghét là ghét kẻ khi trời
Thương là thương kẻ nghe lời phật răn
Ghét là ghét kẽ tham ăn
Thương là thương kẻ tưởng căn phật trời
Ghét là ghét kẻ loạn lời
Thương là thương kẻ ở đời tu thân
Ghét là ghét kẻ phi ân
Thương là thương kẻ nghĩa nhân ân cần
Ghét là ghét kẻ nịnh thần
Thương là thương kẻ phú bần thảo ngay
Ghét là ghét kẻ xưng hay
Thương là thương kẻ không chay ngay rày
Ghét là ghét kẻ khi thầy
Thương là thương kẻ mưu bày trợ bang
Ghét là ghét kẻ tham gian
Thương là thương kẻ phò an Hớn trào
Ghét là ghét kẻ hổn hào
Thương là thương kẻ anh hào lập thân
Ghét là ghét kẻ vô ân
Thương là thương đức thánh nhân dạy đời
Ghét là ghét kẻ cải lời
Thương là thương kẻ thất thời lâm nguy
Xét đời thương ghét dể chi
Trung thần chi khỏi thạnh suy đổi dời
Tề Thiên ỷ sức loạn trời
Giỏi chi qua Phật cãi lời không tu
Rèn lòng trí huệ công phu
Dò theo biển thánh rừng như học đòi
Trời giông trời cũng làm mòi
Thình lình sấm dậy hẹp hòi khó thay
Ăn mặn dễ bữa hơn chay
Tu nào cũng chẳng bằng ngay trong lòng
Vui chi vợ vợ chồng chồng
Thê thê thiếp thiếp chuổi vòng sấm sanh
Sang giàu người phải thức canh
Gian nhơn thâm nhập đoạt tranh vật hoài
Nghĩa nhân gẫm thiệt lâu dài
Không lo đạo tặc ngũ hoài sáng đêm
Lẻ nào phải tính cho êm
Bằng tê mê dạy việc thêm ngầy ngà
Nói ra phải giác chánh tà
Giác nhi phản giác vất hòa tâm nhơn
Hữu thân chí tất độ thân
Dầu ai ăn ở phi nhân chớ phiền
Noi theo lời thánh giáo tiền
Dầu ai ghét ngỏ ganh hiền mặc ai
Bao giờ đại đạo quảng khai
Mặc tình già trẻ gái trai nghịch tùng
Chưng cơ mạc trí anh hùng
Lá lai (lay) thánh đạo bất tùng tâm vong
Thính kỳ đạo lý nan không
Dầu người lòng bắc dạ đông chớ phiền
Có công ăn học mới thiền
Chẳng cầu ai dễ đem quyền tới cho
Làm người sao việc chẵng lo
Ở đời ấm lạnh đói no phãi rằng
Ở cho thức lý đạo hằng
Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim
Một lo trả nợ thanh nghiêm
Hai lo việc cổ việc kim mình lầm
Ba lo lỗi việc ăn nằm
Bốn lo lỗi đạo ngày rằm ba mươi
Năm lo lỗi ý dễ ngươi
Sáu lo hoa cảnh tốt tươi không hằng
Bảy lo lỗi lý chữ rằng
Tám lo khuyến học cho bằng thế gian
Chín lo họa phước nguy bang
Mười lo trời phật không than việc mình
Mười một lo lổi thiên đình
Mười hai lo lỗi sự tình Tây phương
Lo mình lỗi chi hiền lương
Khấu đầu vọng bái thập phương hoan tình
Phải lo lỗi đạo trong mình
Dể chia ăn nói lộng tình ngoan ngôn
Thuở xưa Đường thất Thế Tôn
Qua cầu đông độ khai môn đạo mầu
Nay lo thất thể nam lầu
Nhứt tâm nguyện thán đập đầu cầu sư
Ưu công chí bất ưu tư
Cầu trời cầu phật phước dư độ đời
Lòng nguyện xin thấu Phật Trời
Mười phương chứng chiếu độ đời nguy nan
Lời nguyền cho thấu tam quang
Độ đời hậu phát bình an thọ trường
Gắng công đạo lý nhứt trường
Đừng nghe sự thế phi thường lảng tâm
Ba mươi mùng một mười lăm
Cầu luôn mười sáu nhứt tâm tu trì
Dụng chi bạc lộn với chì
Vàng trau dạ ngọc tu trì mới nên
Cửa thiền khó mở hai bên
Việc nào cần mẩn chẳng nên cũng thuần
Việc nào chú ý mới nhuần
Lòng không cần mẫn chẳng thuần phải hư
Phật trời còn để phước dư
Cho người dương thế lòng tư thánh hiền
Thức tâm suy hậu nghiệm tiền
Ở sao đừng giận đừng phiền mới hay
Cầu dài ai nở lấp xây
Nghỉa nhân chẳng phải một ngày mà thôi
Đức thắng dỉ đức người ôi
Dỉ tài thọ hại chúa tôi chẵng lành
Hữu tâm kim chỉ để dành
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may
Đất liền ai bắt cầu cây
Cách giang chẳng kẻ ra tay bắt cầu
Màu thoàn (thiền) đắc ý mới mầu
Còn hơn chen chúc công hầu vương khanh
Tiền ma gạo quỉ đua tranh
Lập thân hành đạo giương danh làm đầu
Trách ai lòng ở chẳng sầu
Cách giang đây quyết bắt cầu Tây phương
Nguyện cầu hữu chúa hữu vương
Phật trời xuất thế nhà Thương trị đời
Thầy xưa dạy đạo nhiều lời
Thương thay bổn đạo thịnh thời chẳng nghe
Cầm dao ruồng dáng nhện tre
Tróng trơn gai gốc người nghe đi vào
Nghe sao lăn líu tây tàu
Rừng nho biển thánh đường nào người chê
Thẹn thùa đạo lý gia quê
Phi thiền phi tự người chê ăn mày
Ở đời như bát nước đầy
Đỗ ngay xuống đất hốt rày sao xong
Sang giàu bọt nước mùa đông
Lao xao buổi chợ tang bồng công danh
Cuộc đời nhứt nghệ giá canh
Quới quyền hai chữ công danh rõ ràng.
Sóng xao mặc sóng với thoàn
Nghĩa nhân giữ đặng vẹn toàn mới hay
Gió nam sóng bắc khó thay
Gió bắc chưa thổi gió tây tới mùa
Hay chi những sải ở chùa
Tụng kinh quên phật quê mùa không xong
Bao giờ rắn nước hóa long
Gà bay bỏ ổ con trông mẹ vào
Chẳng ai thức lý minh trào
Mẹ đâu kiếm mẹ con nào con kêu
Đờn cầm tay khải ( khảy) trớ trêu
Năm dây ba bực kêu rêu đời đời
Đờn kêu sự thế cải lời
Đờn kêu phật nói loạn đời chẳng nghe
Đờn kêu sơn thủy so le
Đờn kêu sự thế không nghe lời lành
Đờn kêu phật dạy tu hành
Đờn kêu người chẳng làm lành độ thân
Đờn kêu thiên phước vạn ân
Phật trời dành để cho dân hiền hòa
Đờn kêu tri lý chánh tà
Giáo truyền dân chúng thuận hòa nhứt tâm
Đờn kêu họa phước cơ thâm
Đờn kêu thức lý tri âm thời tường
Đờn kêu Triệu Cấu nan cường
Do lai ô thước dắt đường hồi bang
Đờn kêu quốc loạn nguy nan
Cởi con mã thổ quá giang thịnh thời
Đờn kêu mạng lý tại trời
Thạnh suy có một chử thời mà thôi
Đờn kêu chúa nịnh sát tôi
Tôi tà sát chúa người ôi nan thiền
Đờn kêu nghiệm hậu suy tiền
Kim lai cổ vảng tại miền thế gian
Đờn kêu bá quốc chư bang
Làm người hiếu nghỉa trung cang phế tà
Đất đâu mình đặng cất nhà
Vật đâu mình thực bất hòa quốc vương
(Mất đoạn chót)
_________________________
@ Từ khóa:
kim cổ kỳ quan,
NỘI ĐIỂN,
ông ba thới,
sấm giảng